Mỗi lần về Việt Nam, tôi lại về miền Tây Nam Việt bởi đó là nơi mà tôi đã sinh ra, cho dù tôi đã lớn lên trên Saigon suốt 17 năm và đã lưu vong trên đất Mỹ hơn 15 năm qua. Tháng 11 năm 2000, tôi về miền Tây lần này là vì 2 mục đích chính: tham gia cứu trợ nạn lụt và muốn biết miền Tây có thay đổi gì hay không?
1. Cứu trợ nạn lụt: Tôi tham gia 2 đoàn cứu trợ khác nhau nhưng đều là do các bạn trẻ ở Saigon tổ chức mà tôi liên lạc được từ lần cứu trợ năm ngoái.
Đoàn 1 là do một nhóm bạn trẻ kết hợp với một số nghệ sĩ và một ngôi chùa Phật Giáo ở quận 5 tổ chức đi cứu trợ cho tỉnh Đồng Tháp. Tôi hẹn gặp họ ở ngay
tại chợ Cái Bè rồi qua Cao Lãnh sát nhập với toàn đoàn. Cũng may, không ai biết tôi là người từ Mỹ về nên mọi người hết sức thoải mái, tự nhiên trong việc xăn tay áo lên làm việc thiện. Các bạn đã liên lạc trước với những địa phương mà chúng tôi muốn đến cứu trợ, tìm hiểu rõ nhu cầu của đồng bào nên việc tổ chức rất chu đáo, chặt chẽ và không gặp khó khăn nào như tôi đã lo sợ từ lúc ở Mỹ. Trước tiên, họ mua ghe xuồng ở Long An, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Sa Đéc rồi chở về Cao Lãnh qua Tam Nông trước khi đi ngược lại Cao Lãnh mua tiếp thêm mì gói. Giá xuồng không tăng quá cao mà chủ yếu là chất lượng. Nếu mua xuồng loại ...dỏm thì cứ 3 chiếc với giá khoảng $ 100 USD, khá hơn thì phải $ 50/ chiếc (đủ chịu được ít nhất 3 mùa mưa lũ). Tất cả mền mùng, áo quần và mì gói đều quyên góp hay mua ở Saigon.
Chúng tôi đến xã Tân Hồng, Đồng Tháp, thăm mấy trăm gia đình còn lóp ngóp trong nước lụt. Nghe nói, cả huyện còn trên 1000 ha lúa ngập nước, dân đói nên phải đi mó
t lúa hay bắt chuột đồng, rắn, ếch... mà ăn cho qua ngày. Ở ấp Thống Nhất, tôi bắt gặp những cặp mắt già nua lẫn trẻ thơ đang thập thò trong những cái chòi rách nát trông chờ một miếng ăn! Trao cho họ một thùng mì, họ cứ nghĩ chúng tôi là “Nhà Nước” và chẳng thấy ai trong đoàn lên tiếng giải thích gì cả. Anh Ổi & chị Ban, một gia đình từ Camuchia về đây sống từ năm 1993 mà không có một đồng làm vốn nên được tặng cho một chiếc xuồng là đã rơm rớm nước mắt như vừa ...trúng số! Họ vẫn phải quấn một tấm bạt nhựa quanh người như cái phao vừa đựng lúa, vừa dìu người. “Phao nhựa” này mỏng manh, rất nguy hiểm, dễ bị vướng víu hay bị cái lưỡi liềm cắt trúng chân tay giữa những cánh đồng ngập nước mênh mông. Chính tại nơi này, tôi mới thấy một chiếc xuồng để sống qua mùa lũ là quý biết dường nào với người dân vùng này. Ở đây, nhiều gia đình quá đông con mà cha mẹ chỉ biết mót lúa, đi câu hay làm thuê tạm bợ, chẳng có nghề nghiệp gì thì làm sao nói đến chuyện ổn định cuộc sống. Họ lập gia đình quá sớm, cũng chưa thật sự trưởng thành đầy đủ trong suy nghĩ, cũng chẳng biết giải trí gì khác hơn là nhậu hay ...đi ngủ sớm và cũng chẳng ý thức gì về chuyện ...”kế hoạch hóa gia đình”! Buồn cười nhất là chuyện con trai ở đây bị ...”ế vợ” dài dài; trong khi con gái lại hối thúc lấy chồng quá sớm. Con đường liên huyện của Tân Hồng ngập đầy bã trấu, rơm và ...phân heo bò! Nước lũ vẫn mấp mé nền đường chỉ vài tấc. Tôi thử đề nghị bà con trồng cây, cây gì cũng được, từ cây ăn trái đến cây lấy bóng mát, kể cả cây so đũa cũng được, dọc theo các bờ bao, mấy nền đất cao, suốt các con lộ trong các xã, huyện, tỉnh chứ đừng để trống sẽ dễ sạt lở hơn. Khổ nỗi, chẳng mấy ai để ý, quan tâm gì đến cái “chuyện nhỏ” như vậy! Tôi cũng thắc mắc là tại sao chính quyền không nghĩ tới chuyện điều phối, sắp xếp lại chuyện quy hoạch và di dân sao cho phù hợp hơn với thực tế địa phương để người dân có thể vừa “sống chung với lũ,” vừa có thể tạm ổn định chứ không quá thấp thỏm trước những cơn thiên tai như năm nay? Các cán bộ đều ...im lặng, không thấy ai hỏi tới gì cả? Lạ thiệt! Hình như họ chỉ biết chờ cấp trên chỉ thị và an bài hết mọi thứ mà không còn sự chủ động sáng tạo gì nữa? Nguy hiểm quá!
Từ Tân Hồng, tôi được dẫn đi thăm nông trường Giồng Găng nằm sát biên giới Cambodia, nơi mà lũ đổ về từ thượng nguồn sông Mekong cũng thuộc huyện Tân Hồng, Đồng Tháp. Từ năm 1987, họ đã làm bờ bao kiên cố vì thực tình đó là công sự chiến đấu chống càn trong công tác phòng thủ chiến lược trên vùng biên giới này. Nhờ đó, mỗi khi mùa nước nổi càng dâng cao hơn thì họ càng phải củng cố bờ bao đơn sơ ban đầu này từ từ thành tuyến đê có đường lộ, có cống và máy bơm xả nước hẳn hoi như bây giờ. Với sự giúp đỡ của các kỹ sư thủy lợi, tuyến đê này cao khoảng 4m7, chân đê rộng 12m, mặt đê khoảng 4m, có hệ thống cống xả và tưới rải đều khắp tuyến đê với toàn bộ chu vi là 28km. Chính mặt đê cũng là nơi trú thân cho dân chúng khi lụt dâng cao. Họ đã đón lũ từ tháng 4, họ lập chế độ tuần tra giữ đê, ai cũng có bao cát và cây bạch đàn để phòng hộ đê. Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, khi nước sông Tiền tuy có dâng cao nhưng vẫn từ từ chứ không quét hung bạo như miền Trung, nông trường Giồng Găng đã vượt thoát thiên tai một cách nhẹ nhõm. Có lẽ đây là một bài học cụ thể nhất cho những ai muốn “sống chung với lũ” ở khu tứ giác Long Xuyên này.
2. Hội Nghị khắc phục hậu quả lụt của các tỉnh vùng ĐBSCL : Thực
tế, Trung Ương họp với lãnh đạo 8 tỉnh bị lụt với những chỉ thị mà ai cũng có thể đoán biết trước kết quả, không cần chờ đến thông báo qua báo chí. Lãnh đạo các tỉnh cũng không cho thấy ý kiến nào mới lạ; trong khi thực tế là chương trình “sống chung với lũ” đã phác thảo từ khi ông Võ Văn Kiệt làm thủ tướng cho đến nay mới triển khai thực hiện chứ tôi vẫn chưa thấy sáng kiến mới mẻ nào khác, việc tiến hành xây tuyến đê và nghiên cứu “sống chung với lũ” như thế nào cho hiệu quả thì cũng có ...”nhúc nhích” chút đỉnh trước mùa lũ nặng nề năm nay nhưng nhìn chung là chương trình “sống chung với lũ” vẫn còn...bầy hầy quá đỗi! Ví dụ, đề nghị tất cả con đường trong vùng ngập lụt hàng năm sẽ là ...đường đất đỏ. Lý do: đỡ tốn kém. Bạn nghĩ sao về đề nghị hay ho này? Các giới chức lãnh đạo và chuyên môn trong nước đã chấp nhận giải pháp “sống chung với lũ” vì nghèo, không thể cãi lại thiên nhiên mà phải tận dụng thuận lợi để sống với “mùa nước nổi” (chủ yếu là ngư nghiệp và chế biến thủy sản) nhưng Bộ Phát Triển Nông Thôn, các trung tâm ngư nghiệp của Nhà Nước lại chưa đáp ứng hữu hiệu việc nghiên cứu các loại thủy hải sản nào là thích hợp cho việc nuôi và phát triển ở từng vùng sao cho người dân có thể thu gặt kết quả tốt nhất mà không ảnh hưởng xấu đến môi trường thiên nhiên, con người và dòng sông Cửu Long bởi những hành động tự phát của nông dân như dịch nuôi tôm sú xuất cảng đã thay đổi dòng chảy tự nhiên? Có thể vì hoàn cảnh nghèo khó của xứ sở, vì trình độ chuyên môn (?) cũng hạn chế, vì sự ổn định (?) trong đời sống thường ngày của người dân địa phương, chính quyền đã không còn muốn chạy, né hay chống lại thiên nhiên nữa mà phải chọn cơ cấu kinh tế: 2 vụ lúa + 1 vụ tôm và du lịch “mùa nước nổi” cho vùng rừng tràm (đặc biệt là Tràm Chim Tam Nông, Đồng Tháp - xin xem bài “Tràm Chim Tam Nông” viết từ năm 1996). Khổ nỗi, chủ trương này vẫn chưa được giáo dục, thông tin đầy đủ đến mọi người dân nên vẫn chưa an tâm làm ăn mà vẫn còn chuyện phá rừng tràm bừa bãi, việc buôn lậu qua biên giới vẫn rầm rộ ngày đêm, việc dân bỏ xứ qua Miên, v.v... Hầu hết người dân địa phương mà tôi có dịp trò chuyện đều biết rất mù mờ, thậm chí hoàn toàn không biết và cũng không cần biết đến những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng đến sự sống còn và tương lai của họ & gia đình họ. Với họ, bữa cơm sắp tới mới là thực tế quan trọng nhất mà họ quan tâm lo lắng nhất. Họ đang sống trên vựa lúa lớn nhất nước, đang kiếm ăn trên mảnh đất phì nhiêu nhất nước, bên cạnh con sông lớn với nhiều cá tôm, chưa kể là còn biết bao tặng phẩm quý báu khác của Tạo Hóa dành cho họ; thế nhưng thực tế cho tôi thấy họ là một trong những người Việt Nam nghèo nhất nước, nhiều gia đình chen chúc trong những cái chòi trống trơn, hay chỉ là một chiếc xuồng, một cái bè trôi nổi phải kiếm từng chén cơm, con cá...mỗi bữa, phải bươn chải mưu sinh từng ngày mà vẫn nghèo và đói! Khi mưa bão, lũ lụt (thiên tai), họ chỉ biết chịu đựng và chấp nhận số phận không may của một kiếp người! Chính quyền địa phương cũng thiếu quan tâm (và khả năng?) trong việc tìm kiếm biện pháp giúp đỡ cho người dân nghèo ở đây sớm ổn định cuộc sống và thoát kiếp nghèo đói. Có lẽ chính quyền đã quá bận lo những việc “đại sự” gì đó mà “dân đen” thì chẳng đáng cho họ để ý hay chăng? Ngay như đề án “thoát lũ ra biển Tây” khởi xướng từ năm 1997 sẽ phải kiểm nghiệm lại xem hiệu quả ra sao; không thể quy hết tội lỗi cho những người nuôi tôm ở cửa sông hay ven biển khi mà các nhà khoa học đã và đang thay đổi dòng chảy của một con sông lớn trước khi ra biển đã tính toán thật kỹ và khoa học chưa? Các tuyến đê, kênh, cống, đập...cần được xem xét lại, các chương trình thủy lợi cũng nên kiểm tra sau cơn lụt thế kỷ này. Nhìn chung, Việt Nam đã cố gắng tối đa trong khả năng hạn hẹp để giảm thiểu tổn thất do cơn lụt năm nay, trong đó có công tác dự báo thời tiết & thủy văn và sự tham gia tích cực của quân đội & công an. Tôi không muốn bài bác hay bàn lui chương trình “sống chung với lũ” mà chỉ muốn có sự nghiên cứu khoa học để kiểm tra và đánh giá đúng mức hơn những gì mà chúng ta đã làm, đang làm và muốn làm để có thể đạt hiệu quả tốt nhất là sự an toàn và ổn định cho cuộc sống của người dân. Thật tình thì mỗi mùa nướớc lụt như vậy thì dòng sông Cửu Long đã đem phù sa bồi đắắp cho đồồng ruộng thêm màu mỡ. Phải chi chính quyền có kế hoạch hạn chế tác hại của lũ lụt qua việc thông báo kịp thời mực nước dâng cao đột ngột, huy động lực lượng để kịp ứng phó và di tản dân chúng, lập trại tạm cư và cứu trợ khẩn cấp thì sẽ bớt thiệt hại nhân mạng. Tôi cũng không đồng ý với việc các tỉnh đã dự tính làm đường …đất đỏ trong các vùng ngập lụt thay vì tu sửa và tráng nhựa (AC Paving) bởi họ cho rằng từ nay, hàng năm sẽ có lụt và không thể lãng phí tiền của để tráng nhựa lại những con đường sẽ bị nước lụt tàn phá vào mùa mưa mỗi năm. Tại sao họ không nghĩ tới chuyện vẫn tráng nhựa (AC Paving), thậm chí vẫn có thể tráng ximăng (Hà Tiên), vừa làm hệ thống cống & mương thoát nước (drainage system) cho đàng hoàng lại, vừa phải có biện pháp chống xói mòn (erosion control), bảo vệ dốc (slope protection) của tất cả các con đường bằng cách trồng cây (landscaping) và nhiều cách khác nữa, chưa kể đến việc phải tính toán lại chuyện thoát lũ ra biển sao cho hợp lý và khoa học hơn, cho dù phải đối đầu khá nan giải với đồng bào đang sống với nghề nuôi tôm vùng cửa sông & ven biển. Họ thật sự khó khăn trong bài toán vĩ mô lẫn vi mô, trong cách quản lý/ điều hành/ kết hợp lẫn trong việc tìm kiếm những biện pháp khoa học - kinh tế (chuyên môn) cho những vấn đề trước mắt và lâu dài của đồng bằng sông Cửu Long. Tôi rất mong những nhà khoa học, kinh tế, chuyên viên đã từng sinh ra và lớn lên từ đồng bằng sông Cửu Long sẽ góp sức cho trường đại học Cần Thơ và An Giang (mới mở!) nói riêng, cho đồng bằng sông Cửu Long nói chung để người dân vùng đất này sẽ có một tương lai sáng sủa hơn. Chương trình “Nhà ở cho nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long” vẫn giậm chân tại chỗ khi mà ngân sách đầu tư cho nghiên cứu và thí nghiệm hầu như ...nhỏ giọt (!), thành quả bước đầu cũng chưa thật sự hấp dẫn “đối tượng phục vụ” với những mobile homes, nhà tiền chế/ lắp ráp trên khung sắt, mái lợp tôn là chính. Giới kiến trúc và xây dựng trong nước cũng không mấy ai thích thú tham gia; trong khi tôi lại không đủ thời gian để học hỏi kinh nghiệm xây nhà của bà con nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long hầu có thể tìm ra cách cải tiến sao cho những phương cách xây dựng mới của ngoại quốc có thể áp dụng cho vùng đất nghèo khổ này của quê hương tôi. Một điểm đáng khen là chương trình thay cầu khỉ bằng cầu bê-tông hay cầu sắt đã tiến hành khá tốt đẹp khắp các tỉnh, chỉ còn khó khăn về kinh phí là chính. Nhiều con đường làng lầy lội cũng đã được tráng nhựa hay ximăng sạch sẽ.Qua chuyến đi này, tôi thấy có nhiều điều mà cộng đồng người Việt hải ngoại cùng với báo chí và giới truyền thông ở Mỹ đã sai lầm khi loan tin về trận lụt năm nay thiếu trung thực. Chẳng hạn như:- Nếu kết hợp với địa phương để đi cứu trợ với mục đích nhân đạo (không cố ý làm rùm beng lên với ý đồ chính trị!) thì hoàn toàn không bị cản trở hay gây khó khăn. Đừng cố tình lợi dụng danh nghĩa “cứu trợ” để hoạt động chính trị hay mưu đồ gì khác, chắc chắn sẽ chuốc lấy nguy hiểm cho bản thân và người đi chung đoàn bởi hệ thống an ninh của Việt Nam rất chặt chẽ và hiệu quả.
sửa chữa và mở rộng hơn nữa, cần có thêm nhiều khoa/ ngành, nhất là về xây dựng cơ bản, quy hoạch, môi sinh, kinh tế, quản trị kinh doanh và hành chánh, điện toán và nhiều ngành khoa học cơ bản khác nữa chứ không thể chỉ tập trung vào nông nghiệp và sư phạm là đủ. Giá như ĐHCT có được một bệnh viện có đủ các ngành cho y - nha - dược vừa phục vụ cho công tác giảng dạy & thực tập, vừa đáp ứng nhu cầu rất lớn của miền Tây Nam Việt. Song song là nhu cầu mở thêm nhiều trường đại học và chuyên nghiệp nữa ở vùng ĐBSCL, có thể là ở Mỹ Tho, Vĩnh Long, An Giang, Rạch Giá hay Bạc Liêu? Tốc độ phát triển quá chậm của các tỉnh vùng ĐBSCL là nguyên nhân chính khiến Nhà Nước chưa thấy sự cần thiết cho việc đầu tư để phát triển vùng đất này hay sao? Tôi rất muốn biết tại sao Việt Nam chưa đầu tư đúng mức cho các tỉnh vùng ĐBSCL khi mà đây là vựa lúa lớn nhất nước, tiềm năng rất phong phú, điều kiện tự nhiên quá thuận lợi, người dân lại cần cù, siêng năng và thông minh? Mong rằng các nhà lãnh đạo các tỉnh vùng ĐBSCL sẽ giải thích và lên tiếng về vấn đề này càng sớm càng tốt để sớm đánh thức một vùng đất nhiều hứa hẹn này.Có đến thăm ĐHCT, tôi mơi hiểu được những khó khăn của trường và đội ngũ trí thức vùng ĐBSCL. Qua chuyến đi lần nàý, tôi cũng thấy được vì sao các tỉnh vùng ĐBSCL lại ....nghèo như vậy! Thực ra, nếu đến thăm các thị trấn, tỉnh lỵ, ai cũng sẽ thấy các cao ốc nguy nga, đồ sộ của Tỉnh ủy & UBND Tỉnh, Công An Tỉnh, Ban Chỉ Huy Quân Sự Tỉnh (Tỉnh Đội), Bưu Điện, Ngân Hàng Tỉnh, v.v... thì làm sao nói các tỉnh vùng ĐBSCL lại ....nghèo cho được? Chưa kể đến việc xây dựng quá nhiều nghĩa trang liệt sĩ, có cái đồ sộ, có cái màu mè không ra gì, trông thật ...lãng phí. Chẳng thà mỗi tỉnh làm một cái Đài tưởng niệm những người vì nước hy sinh coi cho đàng hoàng, mỹ thuật một chút thì được biết mấy! Dân còn nghèo, không có miếng ăn, chỗ ở cho ra hồn mà từ xã đến huyện, tỉnh cứ thi nhau xây Nghĩa Trang Liệt Sĩ rầm rộ như vậy để làm gì? Có lẽ người chết cũng khó lòng an nghĩ khi mà cứ nhìn xem đa số người dân sống ở các huyện & xã xa xôi một chút thuộc bất kỳ tỉnh nào thuộc các tỉnh vùng ĐBSCL thì ai cũng sẽ thấy dân nghèo như thế nào và sẽ hiểu vì sao họ lại nghèo đến như vậy. Lãnh đạo lố bịch và ...tồi đến thế là cùng! Đến năm 1999, tôi mới thấy các tỉnh vùng ĐBSCL hối hả đầu tư xây dựng cơ sở vật chất nhưng vẫn quá ...nặng hình thức, thích đối phó hơn là có tính toán khoa học hơn, có giá trị kinh tế một cách thực tế hơn, có hiệu quả ích lợi lâu dài hơn. Nói thẳng là Vietnam hôm nay thích làm ăn “chụp giựt”, khoái “mánh mung” và “chấm mút” theo kiểu “ăn xổi, ở thì” hơn là đầu tư lâu dài để xây dựng đất nước và cải thiện đời sống người dân lương thiện. Nếu Việt Nam cứ thích “đùa dai” như vậy thì tôi tin sớm muộn gì Việt Nam cũng sẽ mắc bẫy của những tên bợm quốc tế! Nhìn sang Thái Lan, Mã Lai đi, Việt Nam sẽ có nhiều bài học quý báu để rút kinh nghiệm. Ngoại trừ thành tích sản xuất lúa gạo đứng đầu cả nước và sự có mặt của cầu Mỹ Thuận, thử hỏi 25 năm qua, các tỉnh vùng ĐBSCL có gì đáng khoe? Ruộng đất phì nhiêu, vườn cây ăn trái tươi tốt, khí hậu thuận hòa; vậy mà người dân vẫn nghèo khổ là bởi vì sao? Đa số quá chất phác, chân thật, cần cù, thông minh nhưng tại sao cuộc sống của họ vẫn không khá gì hơn sau 25 năm “giải phóng”?
No comments:
Post a Comment