1. Khái quát:
Nhật Bản(gọi tắt là Nhật), là một hải đảo hình vòng cung ở đông Á, có diện tích tổng cộng là 377.834 km², nằm phía đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải từ biển Okhotsk ở phía bắc đến biển đông Trung Quốc ở phía nam.
Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt. Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido(Bắc Hải Đạo), Honshu(Bản Châu), Shikoku (Tứ Quốc) và Kyush(Cửu Châu) cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh.
Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và núi lửa, tiêu biểu như ngọn núi Phú Sĩ (Fuji) cao nhất ở Nhật Bản.
Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128 triệu người. Vùng thủ đô Tokyo và một vài quận xung quanh là trung tâm thủ phủ lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống.
Nhật Bản có kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính theo GDP chỉ sau Hoa Kỳ. Là thành viên của tổ chức liên hiệp quốc, G8, G4 và APEC. Nhật Bản đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng, xuất khẩu lớn thứ 4 thế giới và là nước nhập khẩu đứng thứ 6 thế giới.
Tên "Nhật Bản" viết theo Latinh là Nihon hoặc Nippon có nghĩa là "gốc của Mặt Trời" và được hiểu là "xứ Mặt Trời mọc".
Nhật Bản còn gọi là "xứ sở hoa anh đào", vì cây hoa anh đào (sakura) mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống Nam, được người Nhật yêu thích, phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều quyết liệt của dân tộc họ. Vô công viên Ueno
Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản đã lấy tên nước là Yamato. Còn người Hoa từ trước công nguyên đã gọi Nhật là Nụy quốc , người Nhật là Nụy nhân, những tên cướp biển trên biển Đông Trung Hoa thời Minh là Nụy khấu. Thời đó người Nhật chưa có chữ viết riêng mà viết bằng chữ Hán nên người Nhật dùng hai chữ Hán là "Đại Hòa" để biểu ký âm Yamato, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Nhật Bản còn được gọi là Phù Tang. Cây phù tang thực ra là một loại cây dâu. Theo truyền thuyết cổ phương Đông, có cây dâu rỗng lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là nơi thần mặt trời nghỉ ngơi trước khi cưỡi xe lửa du hành ngang qua bầu trời từ Đông sang Tây. Do đó, Phù Tang hàm nghĩa văn chương ám chỉ nơi mặt trời mọc.
Nhật Bản có diện tích tổng cộng là 377.834 km², hơn 3.900 hòn đảo nhỏ và 4 đảo lớn. Trong số các hòn đảo nhỏ, đảo Okinawa là lớn nhất và quan trọng nhất, từ mỏm phía cực tây của đảo Honshu tới đảo Đài Loan. Sóng thần, động đất, núi lửa, bão nhiệt đới khá phổ biến ở Nhật Bản. Đặc biệt, do thuộc "vành đai lửa Thái Bình Dương," Nhật Bản là một trong những vùng có nhiều động đất nhất thế giới. Mỗi năm có hàng trăm địa chấn, có những trận động đất gây tổn thất nặng nề.
Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong (momiji) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Ngọn Fujisan cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ xứ Phù Tang cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.
Nhật Bản rất nghèo về tài nguyên, ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954), phát triển cao độ (1955-1973). Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế-công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu người là 36.217 USD (1989). Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là đồng yen.
Nhật Bản đang xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính phủ. Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ. Nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 đạt trên 3%, quý I/2004 đạt 6%.
Nhật Bản có năng lực rất lớn về công nghiệp và đây là trụ sở của các tập đoàn đa quốc gia (tập đoàn tài chính Mitsubishi UFJ Financial Group với số vốn ước tính lên đến 1.7 nghìn tỉ USD) + nhiều nhà sản xuất công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới (như Sony, Sumitomo, Mitsubishi and Toyota) về các sản phẩm: xe, trang thiết bị điện tử, máy móc, thép, tàu thủy, hóa học, dệt may, thức ăn chế biến, công nghệ và xây dựng.
Những đối tác xuất khẩu chính của Nhật là Hoa Kỳ 22.9%, Trung Quốc 13.4%, Hàn Quốc 7.8%, Đài Loan 7.3% và Hồng Kông 6.1% (2005). Những mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật là thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử và hóa chất. Do hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, để duy trì sự phát triển của nền kinh tế, Nhật Bản phải phụ thuộc vào các quốc gia khác về phần nguyên liệu. Vì vậy, đất nước này nhập khẩu rất nhiều loại hàng hóa đa dạng. Đối tác nhập khẩu chính của Nhật là Trung Quốc(21%), Hoa Kỳ(12.7%), Saudi Arabia (5.5%), UAE (4.9%), Australia (4.7%), Hàn Quốc (4.7%) và Indonesia (4%) (số liệu 2005). Những mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật Bản là máy móc, thiết bị, chất đốt, thực phẩm (đặc biệt là thịt bò), hóa chất, nguyên liệu dệt may và những nguyên liệu cho các ngành công nghiệp của đất nước.
Tháng 1 năm 2007, Quốc hội Nhật Bản thông qua quyết định thành lập Bộ Phòng vệ trên cơ sở Cục Phòng vệ trước đây, cho phép Nhật phòng thủ, đưa quân ra nước ngoài trong các chiến dịch giữ gìn hoà bình, giải quyết các xung đột khu vực.
Trở lại nhà ga trung ương Tokyo - đây là nhà ga lớn và nhộn nhịp thứ nhì sau nhà ga Shinjuku, là nơi nối kết nhiều đường tàu điện từ các nơi đổ về Tokyo kể cả những đuờng tàu điện ngầm. Nơi đây cũng là trạm chính của đường tàu “đầu đạn” (bullet train) có tên Shinkansen chạy nhanh nhất Nhật Bản với tốc độ 280 km (174 mi)/ giờ nối Tokyo với Osaka ở hướng Nam là thành phố lớn thứ nhì Nhật Bản. Ngồi trên tàu rất êm, để ly nước trên thành ghế mặt nước chỉ gợn nhẹ. Hệ thống chuyên chở công cộng ở Nhật rất hữu hiệu, đáp ứng được nhu cầu di chuyển hàng ngày của dân chúng. Họ không phải lái xe mỗi người một chiếc như ở Mỹ vừa tốn nhiên liệu, vừa gây ô nhiễm, vừa bị kẹt xe. Hệ thống xe điện đi khắp mọi nơi, di chuyển từ quận này qua quận kia trong cùng thành phố hay đi lại giữa các tỉnh đều có xe điện. Thành thử nhà ga trở thành một địa điểm quan trọng và là một nơi hẹn hò. Mọi người dân Nhật đều dùng xe điện, di chuyển gần như từ nhà ra ga xe điện thì có xe buýt. Thành phố Tokyo có tuyến đường xe điện chính mang tên Yamanote Line, đoàn tàu khoảng 12 toa sơn màu xanh lá cây, chạy qua khắp các quận trong thành phố thành một vòng tròn. Để chạy giáp vòng đoàn xe mất 62 phút và qua tất cả 29 nhà ga, khoảng cách giữa 2 ga lối vài cây số và trong giờ cao điểm cứ 2 phút là có một chuyến tàu tới. Giá vé tối thiểu hiện nay cho một đoạn đường là 150 yen và có loại vé tháng đi bao nhiêu chuyến cũng được. Nếu muốn dạo một vòng Tokyo, du khách có thể mua vé giá tối thiểu 150 yen và lên bất cứ ga nào trên tuyến Yamanote Line. Sau một vòng ngoạn cảnh 62 phút, đoàn xe sẽ trở về ga cũ và du khách cứ ung dung cầm vé ra cửa và cà (scan) vào máy. Nếu vé thiếu tiền, hành khách có thể mua thêm hoặc trả thêm tiền sai biệt cho nhân viên nhà ga.
Tuyến xe điện Yamanote Line hàng ngày chạy từ khoảng 4, 5 giờ sáng cho đến nửa đêm qua hầu hết những khu vực nhộn nhịp nhất của Tokyo như :
- Ginza (ga Yurakucho) có trung tâm là ngã tư hai đại lộ Harumi-dori và Chuo-dori. Là khu thương mại sang trọng nhất Tokyo với những thương xá lộng lẫy như Mitsukoshi, Matsuya, Matsuzakaya v.v...bán kim cương, nữ trang, những hàng hóa đắt tiền.
- Chuo-ku (ga Tokyo): khu ngân hàng, hoàng cung và những cơ quan chính phủ trung ương.
- Akihabara: khu phố bán máy móc điện tử, những sản phẩm mới nhất ở Mỹ chưa có nhưng cuốn “manual” chỉ dẫn lại in toàn chữ Nhật! Nơi đây xe điện chạy trên cao ngang nóc tòa nhà 3 tầng.
- Ueno: công viên hoa anh đào, vườn hoa, sở thú, bảo tàng viện. Rất đông hai ngày cuối tuần.
- Shinjuku: khu đèn màu giải trí, ăn uống, mua sắm nhộn nhịp nhất về đêm, nhiều cao ốc chọc trời ở phiá Tây trong đó có Toà Thị Chính Tokyo nơi du khách có thể lên tầng 45 cao 243 mét (797 ft) để ngắm cảnh thành phố miễn phí, trời trong có thể nhìn thấy ngọn Phú Sĩ Sơn cách Tokyo 100 km (62 mi) về phiá Tây Nam.
- Shibuya: nhộn nhịp về đêm của giới trẻ, quần áo, đầu tóc lạ mắt và những cửa hàng thời trang giới trẻ.
- Shinagawa: khu đang phát triển với những khách sạn sang trọng nhất Tokyo.
- Roppongi: gần khu bến tàu Odaiba có vườn hoa Hoàng Cung rất đẹp thu hút khá đông du khách.
- Tháp Tokyo giống như tháp Eiffel ở Paris nhưng cao hơn và sơn màu đỏ cam ở gần khu phố Roppongi là khu người Âu Mỹ với nhiều nhà hàng và hộp đêm. Đi thang máy lên tầng cao rồi từ đó nhìn thấy toàn cảnh Tokyo bên dưới y như tháp Eiffel hay Space Needle ở Seattle, WA. Sau đó, ghé qua đài truyền hình Nhật để xem kỹ nghệ truyền thông ra sao.
- Vịnh Tokyo với cây cầu Vồng (Rainbow Bridge) "hoành tráng" như cầu Golden Gate bắc qua bán đảo Odaiba do sức người đắp tạo thành bán đảo. Từ bán đảo nhìn về thành phố Tokyo là một phong cảnh kỳ thú ngoạn mục, thấy cả tháp Tokyo vươn mình bên cạnh hàng trăm cao ốc. Nơi đây có “bản sao” tượng Nữ Thần Tự Do cầm đuốc đứng trên bờ biển y như ở New York do chính phủ Pháp trao tặng. Du khách có thể xuống du thuyền để ăn tối và du ngoạn ngắm cảnh Vịnh Tokyo. Ăn chiều xong đã 7 giờ nhưng mùa hè trời vẫn còn nắng và tôi lấy xe điện Yamanote đi về khu Shinjuku để xem lớp trẻ Nhật sinh hoạt về đêm ra sao.
Sáng hôm sau, tôi ra khu mua sắm Ginza nhộn nhịp người đi. Hàng hóa trong các thương xá rất nhiều và bày biện rất đẹp. Các cô bán hàng đứng trước cửa tiệm mời chào nhưng giá cả khá đắt so với Cali và tôi cũng không cần món gì nên đi về hướng Tây để viếng Hoàng Cung (Imperial Palace). Từ Ginza đến Hoàng Cung không xa mấy khoảng hơn một mile, vừa đi bộ vừa ngắm cảnh trung tâm Tokyo. Hoàng Cung Nhật Bản nằm trong một khu công viên rộng lớn bên ngoài trồng nhiều cây thông cổ thụ cắt tỉa khéo léo. Hoàng Cung không lớn được xây trên nền cũ của cung điện Edo và hoàn tất năm 1888, rồi bị tàn phá do máy bay Mỹ dội bom năm 1945. Sau thế chiến thứ hai, cung điện được xây lại cùng kiểu cũ, đến năm 1968 được trùng tu toàn diện như ta thấy ngày nay. Phía trước là một chiếc cầu đá hai nhịp tên là Nijubashi (Nhị Trọng Kiều) bắt qua một hào sâu. Du khách chỉ được đứng bên ngoài nhìn tòa lâu đài xa xa mà thôi chứ không được vào bên trong tham quan. Mỗi năm, cung điện mở cửa cho dân chúng vào thăm hai lần, một lần vào dịp đầu năm Tết của Nhật vào ngày 2 tháng Giêng (dương lịch) và một lần vào ngày sinh nhật của Nhật Hoàng là ngày 23/4 - lúc đó Hoàng Gia Nhật sẽ hiện diện trên ban công để dân chúng chúc mừng. Nhật Hoàng hiện nay có tên là Akihito (Minh Nhân).
- Khu Chiyoda: tập trung quyền lực của Nhật với Hoàng Cung(Imperial Palace), Nội Các (Ministries) gần Kasumigaseki, Quốc Hội ở Nagatacaho, các Bộ ở Marunouchi, và khu electronics mecca ở Akihabara.
- Khu Chuo: gồm các department stores ở Ginza và các chợ cá ở Tsukiji (bán sushi và hải sản ngon, rẻ, tươi).
- Khu Minato: với các khu business center ở Akasaka, gần đó là khu nightclub Roppongi, khu bến tàu và hòn đảo nhân tạo (artificial island) Odaiba, khu skyscrapers Shiodome.
- Khu Shinjuku: với các khu nhà giàu, các luxury hotels, các giant camera stores, các futuristic skyscrapers, hàng trăm shops& restaurants, và khu ăn chơi nổi tiếng Kabukicho - "Tokyo's wildest nightlife and red-light district" !
- Khu thời trang Shibuya, gồm cả "thiên đường tuổi trẻ"(teenybopper haven) Harajuku (trong khu đền Meiji) và khu ăn chơi về đêm Ebisu.
- Khu nhà ga + buôn bán Shinagawa & Ikebukuro; trong đó có khu business center Toshima.
- Khu gia cư Meguro với vài parks & museums khá đẹp.
Khu Old Tokyo (Shitamachi) gồm:
- Khu bờ sông Sumida với Ryogoku (có Edo-Tokyo Museum và trung 6am biểu diễn sumo arena - Ryogoku Kokugikan).
- Khu Taito & Bunkyo, trung tâm của Old Tokyo với nhiều ngôi chùa trong khu Asakusa và các nhà bảo tàng nổi tiếng trong công viên Ueno.
- Khu bờ sông Koto, giữa 2 con sông Sumida & Arakawa, phía nam của Sumida với khu rừng Kiba nổi tiếng trước kia, có đền Kameido Tenjin mà đại sư Michizane Sugawara đã lập ra Kameido.
- Khu Arakawa và khu phía Nam của Adachi.
Tokyo còn có khu đảo Izu & Ogasawara. Đảo Izu có khu Metropolitan Government Office trải dài từ Oshima, Toshima, Niijima, Shikinejima, Kouzushima, Miyakejima, Mikurajima, Hachijojima qua Aogashima. Oshima & Aogashima là 2 đảo ở khá xa nhưng đảo nào cũng có khu marine sports với những bãi tắm biển, chơi scuba diving, surfing, câu cá với nhiều cảnh đẹp nên thu hút khá đông du khách vào mùa hè. Quần đảo Ogasawara cách Tokyo 1000 km, với trên 20 đảo nhưng chỉ có Chichijima & Hahajima là không có người ở. Ogasawara National Park có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời; nhất là ngắm cảnh biển và coi cá voi (whale watching).
Setagaya, Shimokitazawa, Suginami.
Ra ga Shinkasen/ Nagoya khởi hành đi Kyoto bằng bullet train (xe điện cao tốc đạt đến 300km/h), mất khoảng 45 phút để đến Kyoto, tham quan cố đô Kyoto với di tích Golden Pavillion (Đền Vàng – toàn bộ ngôi đền được dát bằng vàng lá tuyệt đẹp rực rỡ nằm giữa mặt hồ xanh màu ngọc bích), đền Kiyomizu với suối nước trong lâu đời nhất Nhật Bản được UNESCO công nhận là di sản văn hoá năm 1994, trung tâm dệt Nishijin tìm hiểu về công nghệ dệt vải áo Kimono và thưởng thức màn trình diễn Kimono đậm nét truyền thống; tham quan khu sản xuất ruợu Sakea truyền thống.
d.Kyoto:Thành phố Kyoto là một thành phố có dân số hơn 1,5 triệu người. Thành phố này trước kia là kinh đô của Nhật Bản, nay là tỉnh lỵ của tỉnh Kyoto và là một phần chính của vùng đô thị Kansai. Kyoto vẫn là kinh đô của Nhật Bản cho đến khi được dời đến Edo năm 1868 vào thời Minh Trị duy tân. Kyoto là thành phố lớn duy nhất của Nhật Bản vẫn còn các tòa nhà thời trước Thế chiến thứ hai như tòa thị chính truyền thống machiya. Tuy nhiên, sự hiện đại hóa đang dần phá vỡ Kyoto truyền thống, như Nhà ga Kyoto. Kyoto là nơi đăng cai tổ chức hội nghị và đã ra Nghị định thư Kyoto về "hiệu ứng nhà kính" năm 1997. Thành phố ban đầu được bố trí theo mẫu của kinh đô Tràng An (nay là Tây An). Cung điện hoàng gia nhìn về phía Nam, do đó Ukyō (phần bên phải của kinh đô) nằm ở phía Tây trong lúc Sakyō (phần bên trái) nằm ở phía Đông. Các phố ở các phường ngày nay Nakagyō, Shimogyō và Kamigyō vẫn theo kiểu bố trí này. Ngày nay, quận kinh doanh chính nằm ở phía Nam của Cung điện hoàng gia cổ, với khu vực phía Bắc thưa dân hơn và vẫn còn nhiều mảng xanh. Các khu vực xung quanh không tuân theo kiểu bố trí như trung tâm thành phố. Kyoto được bao bọc ba bên xung quanh bởi các núi Higashiyama, Kitayama và Nishiyama, với độ cao chỉ khoảng 1000 m dưới mực nước biển. Các ngọn núi này đã mang đến mùa Hè nóng và mùa Đông lạnh.
Lên xe bus hướng về thành phố Osaka để tham quan lâu đài Himeji được công nhận là di sản thế giới với các đường hào uốn lượn bao quanh tuyệt đẹp, với các công trình kiến trúc độc đáo mà mỗi toà nhà là một bảo tàng về nghệ thuật kiến trúc cổ, là niềm tự hào của người Osaka cũng như người Nhật Bản.
e. Osaka: Từ Kyoto đi xe lửa tốc hành về Osaka chỉ mất 15 phút. Osaka là một tỉnh ở vùng Kinki trên đảo Honshū. Trung tâm hành chính là thành phố Osaka, lớn thứ 3 nhưng quan trọng thứ 2 sau Tokyo. Lâu đài Osaka từng là nơi Toyotomi Hideyoshi cư ngụ trước khi dời đô về Edo nên đã được xây từ năm 1583, trùng tu và xây dựng lại nhiều lần nên đó là lâu đài rộng lớn và danh tiếng nhất Nhật Bản với vườn hoa anh đào nở rộ vào tháng 4 hàng năm đẹp vô cùng. Osaka có 10 thị trấn (cho) và làng (mura) hợp thành 5 gun. Trung tâm Osaka được chia làm 2 phần: phần phía bắc Kita (có khu Umeda & Sonezaki nổi tiếng, với high-rise buildings & extensive centres sang trọng và rất nhiều nhà hàng, khu shopping) và phía nam Minami(có nhiều khu vui chơi-giải trí như các rạp hát, kabuki, bunraku, modern theatrical, vaudeville & movie theatres). Một khu giải trí và bán đồ điện tử quanh cầu Dotonbori, Công viên tam giác, khu Nipponbashi Den Den và khu thời trang Amerikamura ("làng Mỹ") ở Minami. Minami cũng là quê hương của cây cầu Shinsaibashi và cũng là khu mua sắm Ebisubashi với con đường Midosuji Boulevard là trung tâm mua bán nhộn nhịp nhất. Khu trung tâm bao gồm toà án và ngân hàng nằm ở vùng Yodoyabashi và Honmachi giữa Kita và Minami. Khu này cũng có ga Tennoji và ga Kyobashi. Nhà ga Namba ở phía Nam cũng là một khu shopping sầm uất. Osaka nổi tiếng với hội chợ quốc tế EXPO 1970, với bunraku (nhà hát rối cổ truyền), nhà hát kịch kamigata, kabuki và manzai (một hình thức hiện đại của kịch hài). Osaka cũng là nơi tập trung nhiều nhà hàng ngon và nổi tiếng, hầu như thuộc đủ mọi nước trên TG. Chùa Shitennoji (xây năm 593) là ngôi chùa cổ nổi tiếng nhất Osaka. Kế đến là đền thờ lớn Sumiyoshi, gồm 4 khu chính, là bảo tàng quốc gia.
Những điểm thu hút du khách còn có:
Kaiyukan là một phòng trưng bày trong vịnh Osaka, có 35.000 loài sống dưới nước trong 14 bể lớn. Cái lớn nhất trong số đó cũng là lớn nhất thế giới, chứa trong đó 5.400 tấn nước và là ngôi nhà của nhiều sinh vật biển khác nhau kể cả cá voi và cá mập. Khu giải trí Osaka Universal Studio – một thế giới thu nhỏ các công trình kỹ xảo điện ảnh của Hollywood, khách có thể tham quan và tham gia các trò chơi tại đây y như Universal Studio Los Angeles.
Các địa điểm đáng chú ý khác mà chúng ta có thể ghé qua cho biết:
- Quận Shinsekai và Tháp Tsutenkaku (cao 103 m, với đài quan sát cao 91 m) là "landmark" của Osaka. Ngoài ra còn có Tháp Sony.
- Bảo tàng thành phố Osaka, Bảo tàng khoa học Osaka, Bảo tàng nghệ thuật quốc gia Osaka, Bảo tàng dân tộc học quốc gia (Minpaku), Bảo tàng nhà nông nghiệp ở công viên Hattori Ryokuchi và Bảo tàng đồ sứ và đồ gốm (thành lập năm 1982. Có 2.000 mảnh gốm ở đây, trong đó có cái là tài sản quốc gia. Ở đây cũng có một phòng trưng bày thiên nhiên chuyên về gốm sứ xanh ngọc Hàn Quốc).
- Công viên Nakanoshima, Sumiyoshi Taisha & Tennoji
- Thư viện công cộng Nakanoshima
- Quảng trường trung tâm Osaka
- Đền Shitenno
- Điện thờ Sumiyoshi Taisha
- Trung tâm thương mại châu Á-Thái Bình Dương
- Toà nhà WTC Osaka
- Nơi sinh của Hiromitsu Ishida
- Thị trấn Den Den
- Mái vòm Osaka
- khu Kita ở phiá bắc, khu Nakanoshima dọc bờ sông Dojima & Tosabori, Midosuji Boulevard,khu Minami phía nam,công viên Tsurumi Ryokuchi,khu Kaiyukan dọc bờ biển.
Ăn tối và mua sắm tại khu Shinsaibashi nhưng cái gì cũng mắc hơn Cali nhiều. Osaka là nơi sinh ra kiến trúc sư Tadao Ando nổi tiếng nên có thể tìm thấy những tác phẩm tuyệt vời của ông ta trong vùng Osaka - Kobe này, như Rokko Housing bên sườn núi Rokko, hay Water Temple trên đảo Awaji, hoặc "The church of the light" - Baraki ở Osaka. Nhà bảo tàng thiếu nhi(The Children's museum xây năm 1988-1989) xây bên cạnh khu rừng nằm trên sườn núi trông xuống bờ hồ của thành phố Himeji cũng là 1 trong những tuyệt tác về nhà bảo tàng và công trình dành cho thiếu nhi của KTS này.
f. Kobe: là thành phố cảng - thủ phủ của quận Hyogo, là 1 trong 10 thành phố lớn nhất Nhật Bản. Đây là một trong những thành phố đầu tiên mở rộng thông thương với phương Tây từ năm 1868. Thành phố cảng biển quốc tế này có 45.500 cư dân nước ngoài đến từ 100 quốc gia. Tháp Kobe là biểu tượng chính của Kobe, với khung sườn sơn đỏ, trông giống như một tác phẩm điêu khắc. Từ sân thượng của tháp Kobe, có thể nhìn thấy toàn cảnh bến cảng Kobe, nhất là về đêm, sau khi thành phố lên đèn, với nhiều công trình xây dựng thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc Đông - Tây trong khu Motomachi và Kokashita. Kobe có nhiều công trình kiến trúc - xây dựng nổi tiếng như cây cầu dây văng dài 10 km Akashi-Kaikyo bắc ngang qua eo biển Akashi (luôn tấp nập tàu bè qua lại) từ Kobe qua đảo Awaji, cầu Higashi-Kobe (xây xong năm 1992, xin xem thêm tài liệu về hậu quả động đất đối với cầu dây văng H-pylon này) và rất nhiều ngôi nhà mang dáng dấp Âu - Mỹ, nhất là kiểu Đức (như căn nhà ở ). Kobe có hai hòn đảo nhân tạo: Đảo Cảng (Port Island với khu Port Terminal là nơi neo đậu những cruise boats sang trọng, gần đó là khu Kobe Science Museum, khu Kobe International Conference Centre và nhiều khách sạn, chung cư, biệt thự sang trọng) và đảo Rokko, được xây dựng để mở rộng phần thành phố vốn nhỏ hẹp này. Ngày 17 tháng 1 năm 1995, một trận động đất 7,2 độ Richter, xảy ra vào 5:46 giờ sáng gần thành phố đã làm chết 6.433 người, làm 300.000 người thành vô gia cư, phá hủy phần lớn kho cảng và nhiều phần của thành phố. Đó là một thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại của thành phố. Cơn địa chấn đã phá hủy xa lộ Hanshin nên còn được gọi là Cơn địa chấn dữ dội Hanshin. Kobe đã là cảng biển bận rộn nhất Nhật Bản, nằm trong 10 cảng biển châu Á cho tới khi cơn địa chấn Hanshin xảy ra. Từ sau đó, cảng Nagoya đã trở thành cảng biển lớn nhất Nhật. Thứ hạng quốc tế của Kobe đã tụt xuống 29 (năm 2002) nhưng cảng Kobe sau đó đã lại leo lên vị trí thứ 3 Nhật Bản. Để tưởng niệm nạn nhân của trận động đất 1995, thành phố luôn làm lễ mặc niệm vào tháng 12 hàng năm, Luminarie, lúc đó cả Tòa thị chính được trang trí với những mái vòm chiếu sáng. Đi dọc theo con đường dọc biển ở phường Chuo (Chuo-ku). Tôi vào ăn trưa ở khu Chinatown-Nankimachi của Kobe. Motomachi & Nankinmachi là 1 trong 3 khu phố Tàu lớn nhất ởở Nhật nhưng ở đây khang trang, sạch sẽ và tấp nập hơn với các hàng quán đặc sệt không khí Tàu, đặc biệt là các xe bán há cảo, bánh bao, xíu mại, bắp nướng... dọc theo lề đường.
Kobe cũng là quê hương của món thịt bò Kobe nổi tiếng thế giới nhưng giá rất mắc: $120 USD cho 1 miếng steak loại "cao cấp". Người dân ở đây nuôi và làm thịt gia súc theo một cách riêng để lấy được thịt ngon và nếu ra chợ đặt mua rồi đem về tự ướp gia vị & nướng lấy thì cũng chỉ hơn $60 USD.
Đền Ikuta trong khu Sannomiya là một công trình kiến trúc bằng gỗ trên 1000 năm mà ai cũng ghé thăm. Khu ngoại kiều (The Old Foreign Settlement) gần bến cảng là khu buôn bán mang ảnh hưởng Âu-Mỹ rõ rệt. Meriken & Sorakuen là 2 trong số các công viên đẹp ở Kobe; chưa kể là khu dọc theo bến cảng (Harborland) với nhiều khách sạn sang trọng, rất đẹp. Dạo chơi ở khu Sannomiya, Motomachi và bến cảng xong, qua khu Kitano và Shin-Kobe là khu ngoại kiều cư ngụ với kiến trúc y hệt Âu-Mỹ, nhất là khu Ijin-kan, Weathercick House, Nunobiki Herb park, Nunobiki Falls... Dãy núi Rokko & Maya là thắng cảnh tuyệt đẹp của Kobe với những khu vườn design theo japanese landscape architecture tuyệt đẹp mà tôi học hỏi được rất nhiều.
Nada là khu sản xuất rượu sake nổi tiếng mà du khách nào cũng phải ghé qua và nếm thử - y như rượu đế Gò Đen ! Sau đó đi tắm suối nước nóng Arima nhưng nói thiệt là mắc hơn suối nước nóng Bình Châu nhiều tuy cung cách phục vụ của Nhật thì ...khỏi chê ! Sau đó thì đi Suma tắm biển, vô coi Suma Aqualife Park và viếng Sumadera Temple (ngôi chùa cổ từ thế kỷ 12). Cây cầu dây văng nổi tiếng Akashi Kaikyo nối liền quận Maiko và đảo Awaji là nơi mà tôi chụp hình nhiều nhất. Từ bãi biển cát trắng Azur Maiko với hàng thông xanh nhìn qua Marine pier, ngắm chiếc cầu..., tôi mới thấy cầu Mỹ Thuận ở quê tôi sao ...nhỏ xíu; kể cả cầu Golden Gate ở San Francisco mà bấy lâu nay tôi ngưỡng phục cũng thua xa ! Bây giờ, tôi mới thật sự khâm phục người Nhật !
g. Nara: ở vùng Kinki nằm trên khu vực của kinh đô Heijo-kyo được thành lập vào năm 710. Từ Kyoto đi Nara chưa đầy 1 tiếng xe bus. Thành phố này đẹp và nổi tiếng nhất Nhật Bản trong thời kỳ trước năm 784(khi thủ đô của Nhật được chuyển đến nơi khác). Công viên Nara vẫn có nai thả rong ung dung đứng nhin du khách. Lịch sử Nhật Bản gọi thời này là thời kỳ Nara. Tên chính thức của thủ đô thời đó được gọi là Heijo-kyo, nhưng còn được gọi là thủ đô Nara có lẽ còn do vị trí của thành phố. Cố đô Nara rất nổi tiếng với các kiến trúc độc đáo của các ngôi chùa. Khi đến Nhật bạn không thể nào không ghé thăm thành phố Nara này. Bức tường bao quanh thành phố dài khoảng 4,3 km từ phía Đông đến Tây, và 4,8 km từ phía Bắc đến Nam. Một con đường rộng được thiết kế theo kiểu Trung Hoa, rộng khoảng 80 m chạy từ phía Bắc đến Nam ở giữa khu vực trung tâm. Con đường này chạy đến cung điện Heijo, khu vực mà vua và các văn phòng trung ương được đặt ở đó. Vào thời Nara, đạo Phật được mạnh mẽ. Nhiều ngôi chùa lớn đã được dựng xây, như chùa Todaiji (Đông Đại tự) xây năm 752 là ngôi chùa xây bằng gỗ lớn nhất TG; bên trong có bức tượng Phật bằng đồng cao 15m. Vì người dân họ nghĩ việc xây dựng xây dựng những ngôi chùa lớn thờ Phật này sẽ bảo vệ được vua và nước Nhật. Lúc bấy giờ, Nhật có quan hệ rất tốt với Trung Quốc nên thành phố Nara đã tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của thời Đường. Trên những ngôi chùa ta vẫn thấy đâu đó dáng dấp những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... độc đáo của Trung Quốc. Đến ngày nay, nhưng kiến trúc này được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước hoa anh đào.Tháng 12 năm 1998, Ủy ban Di sản thế giới đã công nhận một số khu vực và những kiến trúc lịch sử của Nara, gồm cả di tích của các cung điện, rừng cây, chùa chiền... là di sản văn hóa thế giới. Nara là thời kỳ trải dài từ năm 710 đến năm 794 với kinh đô Bình Thành (Heijou kyou) đặt tại Nara. Nara là thời kỳ thi hành chính sách trung ương tập quyền và chế độ pháp trị. Phật giáo được nhà nước bảo hộ và phát triển rộng khắp. Tượng Phật bằng đồng lớn nhất thế giới đặt tại chùa Todai (Đông Đại tự) hiện nay được làm ra trong thời kỳ này. Thời đại này cũng là giai đoạn mở rộng giao lưu văn hoá rộng rãi với các nước khác mà trung tâm là nhà Đường ở Trung Quốc. Ngoài ra có thể thấy một ảnh hưởng lớn của văn hoá Triều Tiên, Ấn Độ và Ba Tư trong thời đại này.Chùa YAKUSHI:Ngôi chùa này đầu tiên được xây dựng vào năm 640 tại Asuka, để là nơi cầu nguyện cho Hoàng hậu khỏi bệnh. Sau đó ngôi chùa được chuyển đến Nara khi thủ đô được chuyển đến đây. Trong ngôi chùa có tượng của Yakushi Nyorai, một biểu tượng sức mạnh của sức khỏe và chữa bệnh.Đền chùa ngự trị trên nhiều đại điểm Phật giáo ở Nhật. Chiều cao thon hình búp măng của chúng nhắc nhở các Phật tử về núi Meru huyền thoại linh thiêng. Ngày nay, Nara vẫn giữ được vẻ cổ kính, không để lại dấu vết nào của thời chiến tranh (có lẽ phải biết ơn nhà bác học Pháp, Serge Elisseev đã khuyên can Hoa Kỳ đừng dội bom Nara và Kyoto). Đi trên đường Sanjodori, nhìn về hồ Sarawasa với hàng liễu rủ (trong đó có cây liễu Kinukakeyanagi rất nổi tiếng). Qua khỏi hồ này là chùa Kofuku với tháp 5 tầng cao vút. Qua cổng tonii đầu tiên sẽ thấy công viên Nara rộng trên 30 ha có trên 1000 con nai thả rong. Tới ngã tư rẻ trái và đi thêm chút xíu nữa là chùa Todaji - ngôi chùa gỗ lớn nhất TG.
Chùa Kofuku là kiến trúc đặc sắc thứ ba của kinh đô Nara. Đây là một trong Thất Đại tự của Nara. Ngôi chùa ngày được chuyển về Nara từ thủ đô trước là Asuka vào năm 710, khi thủ đô được chuyển đến Nara. Ngôi chùa cao 50.8 m gồm 5 tầng. Một ví dụ tiêu biểu cho việc kết hợp hài hòa và yên bình giữa các tôn giáo tại Nhật Bản. Năm 937, một nhà sư của Kofuku-ji đã nhìn thấy trong giấc mơ của mình vị thần Shinto của đền Kasuga, xuất hiện dưới vẻ ngòai của một vị Phật.
Chùa Todai: Đây là ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất thế giới, rộng 50 m, dài 57 m và cao 48 m. Chùa cũ được xây dựng từ năm 751 và đã bị phá huỷ vì chiến tranh. Ngôi chùa hiện nay nhỏ hơn, được xây lại vào năm 1692. Trong chùa có pho tượng Đại Phật lớn nhất thế giới cao 14,98m mặt dài 5,33m, mắt 1,02 m, mũi cao 0,5 m tai dài 2,54 m, nặng 550 tấn.Todai đã bị huỷ hoại nhiều do chiến tranh năm 1180 và 1567 và được xây dựng lại 2 lần vào các năm 1183,1692. Trong hai thời kỳ Meji (1868-1922) và Taisho (1912-1926). Todai được nhiều lần tu bổ lớn. Ngày này, tuy đã thu nhỏ chỉ còn bằng 2/3 so với nguyên thủy. Todai vẫn gây một ấn tượng choáng ngợp bởi kích thước đồ sộ cùng nghệ thuật điêu khắc chạm tinh vi và hàng trăm hiện vật quý hiếm.
Đền Kasuga: ở dưới chân ngọn núi thiêng Mifuta, ngôi chùa lớn Kasuga được xây dựng vào năm 768. Núi Mifuta là nơi tiến hành những buổi cầu nguyện những vị thần linh. Bốn công trình xây dựng của ngôi đền đã được xếp là Tài sản Quốc gia và 27 công trình xây dựng khác được xếp vào danh sách những Tài Sản Văn hóa Quan trọng (Important Cultural Properties). Với màu sơn đỏ son, ngôi đền nổi bật lên trong màu xanh của ngôi rừng trên ngọn núi thiêng Mifuta.Ở trước đền, hai bên lối vào, có khoảng 2.000 chiếc đèn bằng đá. Đêm mồng 3 tháng 2 (Setsubun: tiết phân) tất cả các đèn ấy đều được thắp sáng cùng với khoảng 1.000 chiếc đèn bằng đồng treo ở hàng hiên trong đền.Kasuga là ngôi đền thờ dòng họ Fujiware xưa kia, được xây dựng cách Nara 18km về phía Nam. Khi Nara được lấy làm kinh đô thì ngôi đền được dời về vị trí hiện nay và gồm có bốn điện thờ làm theo lối kiến trúc đặc biệt gọi là Kasuga-Zukuri.
Chùa YAKUSHI: Ngôi chùa này đầu tiên được xây dựng vào năm 640 tại Asuka, để là nơi cầu nguyện cho Hoàng hậu khỏi bệnh. Sau đó ngôi chùa được chuyển đến Nara khi thủ đô được chuyển đến đây. Trong ngôi chùa có tượng của Yakushi Nyorai, một biểu tượng sức mạnh của sức khỏe và chữa bệnh.Đền chùa ngự trị trên nhiều đại điểm Phật giáo ở Nhật. Chiều cao thon hình búp măng của chúng nhắc nhở các Phật tử về núi Meru huyền thoại linh thiêng.
3. Quan hệ với Việt Nam:
Từ thế kỷ 16 đã có những thương gia Nhật Bản đến sinh sống và buôn bán tại Việt Nam. Những thương gia Nhật Bản cùng cộng đồng dân cư bản xứ đã hình thành nên khu đô thị Hội An sầm uất.
Đầu thế kỷ 20, phong trào Đông Du (với cụ Cường Để, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,v.v...) đã đưa một số thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập đường hướng cải cách nhằm văn minh hóa đất nước, tìm con đường giải phóng Tổ quốc khỏi ngoại bang.
Trong Đệ nhị thế chiến, Nhật Bản từng xâm lược Việt Nam, hất cẳng Pháp để lập chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật. Tội ác lớn nhất là gây ra nạn đói.
Trong Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai, Nhật Bản có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam Cộng hòa, viện trợ (nhu đập thủy điện Đa Nhim) và giao dịch (xuất khẩu sang Nam Việt Nam đủ lọai hàng hóa) cũng như trao đổi văn hóa rất tốt đẹp. hật cũng có quan hệ thương mại không chính thức với Việt Nam Dân chủ cộng hòa nhưng đến ngày 21/9/1973, Việt Cộng có quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản. Hai bên đã tạo dựng được cơ chế đối thoại ở nhiều cấp, mở Tổng lãnh sự quán ở Saigon và Osaka.
Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (vào APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật...), coi trọng quan hệ với Việt Nam, lấy lợi ích và mục tiêu lâu dài làm trọng. Việt Nam ủng hộ Nhật làm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mở rộng và vận động Nhật ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
a. Về mậu dịch & viện trợ: Nhật Bản là bạn hàng số 1 của Việt. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999. Trong số 62 nước vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật đứng thứ 3 sau Singapore và Đài Loan về số vốn đăng ký nhưng đứng đầu về kim ngạch đầu tư đã đi vào thực hiện (3,7 tỷ $). 11 tháng đầu năm 2003, Nhật đứng thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn 78 triệu USD. Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam: từ 1992-2003 đạt khoảng 8,7 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại khoảng 1,2 tỷ USD. Từ năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù cắt giảm 5,8% ODA cho các nước nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn là 91,7 tỷ yen, giảm khoảng 1% so với năm 2002. Hai bên đã thoả thuận chương trình viện trợ lâu dài của Nhật Bản cho Việt Nam nhằm vào 5 lĩnh vực chính là: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế; xây dựng và cải tạo các công trình giao thông và điện lực; phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển giáo dục đào tạo và y tế; bảo vệ môi trường. Ngày 2/6/04, Nhật Bản đã công bố chính sách viện trợ ODA mới cho Việt Nam với 3 mục tiêu chính: Thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống - xã hội, hoàn thiện cơ cấu.
b.Về hợp tác lao động
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử 16 ngàn tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật. Nhật là một thị trường tiềm năng cho lao động Việt nam trong. Tuy nhiên mấy năm gần đây nổi lên vấn đề lao động Việt Nam bỏ trốn tại Nhật (tỷ lệ bỏ trốn năm 2002 là 24,7%, cao nhất trong các nước cử lao động sang Nhật) gây khó khăn cho việc hợp tác lao động.
c.Về văn hóa giáo dục:
Hai nước đang triển khai các chương trình đào tạo con người, chương trình thanh niên ASEAN (100 người/năm) và trao đổi các đoàn văn hóa, những người người tình nguyện, chuyên gia. Hàng năm Chính phủ Nhật viện trợ cho Việt Nam từ 1 đến 2 dự án viện trợ văn hoá không hoàn lại như thiết bị học ngoại ngữ, thiết bị bảo quản tư liệu Viện Hán-Nôm, Bảo tàng Lịch sử, xưởng phim hoạt hình. Về giáo dục, Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngoài ra còn có nhiều học sinh du học tự túc. Tổng số lưu học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay khoảng hơn 1000 người. Trong 5 năm (1994-1999), Chính phủ Nhật đã viện trợ 9,5 tỉ yên để xây dựng 195 trường tiểu học ở các tỉnh miền núi và vùng ven biển hay bị thiên tai.
d. Về du lịch: Người Nhật rất thích du lịch nên Nhật Bản cũng là một thị trường được chú trọng để thu hút du khách và phát triển du lịch Việt Nam. Năm 2002 đã có 280 ngàn du khách đến Việt Nam cùng với nhiều du học sinh Nhật qua Việt Nam học hay làm việc. Do ảnh hưởng của SARS, du lịch Nhật Bản vào Việt nam trong năm 2003 giảm sút. Tuy nhiên, cơ hội và tiềm năng thúc đẩy hợp tác du lịch giữa hai nước còn rất lớn. Từ tháng 1/2004, Việt Nam đã chính thức đơn phương miễn thị thực cho người Nhật Bản đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và gần đây nhất từ 1/7/2004, Việt Nam đã quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho công dân Nhật. Đây là thuận lợi lớn để thúc đẩy du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Từ ngày 1/5/2005, Việt Nam và Nhật Bản song phương miễn thị thực hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ.
4.Văn hóa - giáo dục:
a. Văn hóa: Nhật Bản là quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa. Người dân không có nguồn gốc Nhật chỉ chiếm hơn 1% tổng dân số vào năm 1993. Sắc dân nước ngoài đông nhất là Triều Tiên, thứ hai là người Hoa rồi về sau còn có một số dân lao động gồm người Phi Luật Tân và người Thái.
Dân số Nhật Bản vào cuối năm 2000 là 126.434.470 người, đứng hàng thứ bảy TG. Mức gia tăng dân số lên tối đa vào năm 1974 với tỉ lệ sinh 1,27%. Do dân số đông, mật độ dân số của Nhật Bản lên tới 327 người/km². Khoảng 49% dân Nhật tập trung quanh ba đô thị lớn là Tokyo, Osaka và Nagoya. Tokyo vẫn là nơi đông dân nhất, với khoảng 1/3 tổng dân số vì Tokyo là trung tâm của khu vực dịch vụ. Vào năm 1991, Nhật Bản có 13% dân số trên 65 tuổi, tuổi thọ trung bình tại Nhật Bản là 81 đối với phụ nữ và 75 với nam giới.
Người Nhật Bản có nguồn gốc Mông Cổ, giống như người Triều Tiên và Trung Hoa. Người Nhật thường cúi chào bằng cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc địa vị xã hội của cả hai người. Đây là một dấu hiệu quan trọng để tỏ lộ sự kính trọng. Một nét phong tục khác là việc trao đổi danh thiếp. Trong việc giao thiệp, người Nhật thường không thích sự trực tiếp và việc trung gian đóng một vai trò quan trọng trong cách giải quyết mọi hoàn cảnh khó khăn. Cũng như đối với nhiều người châu Á khác, người ngoại quốc tới Nhật Bản cần phải bình tĩnh trước mọi điều không vừa ý, không nên nổi giận và luôn luôn nên nở nụ cười.
Do ý thức mạnh mẽ về vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với gia đình, nền văn hóa Nhật Bản là một sự kết hợp phong phú giữa truyền thống và trào lưu mới, giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, những truyền thống cổ xưa và công nghệ hiện đại cùng tồn tại và tạo nên một môi trường và phong cách sống độc đáo. Người dân Nhật có thể dành cả buổi tối vui chơi tại quán Karaoke hay xem một trận đấu bóng chày nảy lửa và buổi tối tiếp theo, bạn có thể tìm thấy họ tại nhà hát kịch truyền thống hay xem đấu vật sumo. Một hình tượng tiêu biểu cho sự kết hợp Đông / Tây trong văn hóa Nhật: nhà hàng thức ăn nhanh bán pizza với nhân bạch tuộc và rắc hạt mè.
Tuổi “teen” Nhật yêu thích âm nhạc, mua sắm những đồ dùng điện tử thế hệ mới nhất hoặc đi chơi tại những công viên trò chơi. Không cần phải nói, hoạt động giải trí được yêu thích nhất Nhật Bản là Karaoke! Người dân Nhật nổi tiếng tính hiếu khách và nhã nhặn nhưng cũng rất kỷ luật, vệ sinh và ngăn nắp.
b. Giáo dục:
Ở Nhật, hiện Giáo dục trực thuộc một Bộ lớn gồm nhiều lĩnh vực khác nhau:Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology - viết tăt là MEXT).Hệ Thống Giáo Dục Nhật Bản.
Người Nhật rất “dị ứng” với việc đem hệ thống giáo dục nước khác áp dụng vào nước mình. Có thể đó cũng là một yếu tố đưa hệ thống giáo dục Nhật Bản có được nhiều chuẩn mực riêng. Ở Nhật Bản, năm học được bắt đầu vào tháng 4, học sinh cấp 1 và cấp 2 sẽ không phải lên lớp vào ngày thứ 7 nữa. Các trường sẽ cắt giảm chương trình giảng dạy (khối lượng kiến thức) ở các môn như Toán, Tiếng Nhật khoảng 30% mỗi năm nhằm để học sinh có thể hiểu tốt hơn những gì mà chúng học. Chính phủ Nhật tiến hành cải cách GD vì cho rằng chương trình hiện nay tập trung quá nhiều vào việc truyền đạt cho học sinh phương pháp học tập truyền thống mà ít quan tâm đến việc phát huy khả năng tự học của HS.
Hệ thống trường Trung Học tại Nhật tương đương với hệ thống của Hoa Kỳ và họ gần như áp dụng hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ.
Tại Nhật, bạn có thể chọn lựa giữa trường công lập hay trường tư nhưng số lượng vào trường công lập thường bị giới hạn.
Có ba loại hình nghiên cứu sinh sau:
- Du học sinh không có mục đích lấy bằng cấp và chỉ làm nghiên cứu trong một thời gian ngắn
- Du học sinh ngắn hạn của Khoa sau đại học, trong khuôn khổ trao đổi sinh viên giữa các trường đại học
- Làm nghiên cứu sinh để chuẩn bị thi vào cao học.
Loại hình thứ ba thường áp dụng đối với các sinh viên người nước ngoài. Những người này sẽ sử dụng chương trình nghiên cứu sinh dành cho mình để nghiên cứu, ôn thi vào cao học hoặc tiến sĩ. Thời gian học có thể ngắn hoặc dài tùy theo khả năng, thường không dài quá hai năm. Vài trường Đại học nổi tiếng là : ĐH Công nghệ Tokyo, Đại học Hitotsubashi, Đại học Seijo, Đại học Tokyo.
5. Thành phố Cảng Moji: Điều đặc biệt ở Nhật là vô số cây xanh và hoa được trồng ở khắp mọi nơi đã biến quần đảo này trở thành một vùng xanh mát và trong lành. Những khu phố dành cho người đi bộ được chỉnh trang và xây mới trông rất quyến rũ. Những nỗ lực làm sống lại Moji đã gặt hái được thành công đáng kể khi vấn đề quy hoạch - thiết kế - xây dựng đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu và thúc đẩy kinh tế - văn hóa - xã hội ở đây phát triển tốt đẹp hơn. Chìa khóa của họ là nguyên tắc "thiết kế làm sao để tạo sự hài hòa với môi trường xung quanh", "sáng tạo độc đáo nhưng phải phù hợp với con người, cố gắng giản dị và hữu dụng" mà tôi học hỏi được từ các kiến trúc sư Nhật. Kiến trúc Nhật đã tạo được "truyền thống" độc đáo cho dù chịu ảnh hưởng rất lớn kiến trúc Trung Hoa. Nhìn qua các đền, chùa, lâu đài từ ngày xưa cho đến các dinh thự, cao ốc, phi trường, nhà ga hôm nay, qua nhiều thời đại, kiến trúc Nhật đã tạo ra nhiều thế hệ xuất sắc, từ thời đại Asuka và Nara, rồi Heian, Kamakura & Muromachi, Azuchi-Momoyama, tới Edo, qua Meiji và bây giờ là kiến trúc hiện đại với nhiều tên tuổi như Tadao Ando, Hidetsugu Aneha, Sachio Otani, Hiroyuki Wakabayashi,Shusaku Arakawa, Toyo Ito, v.v... Kiến trúc cảnh quan Nhật Bản (Japanese Landscape Architecture) vẫn nổi tiếng với bonsai, vườn thiền(zen garden), vườn đá (rock garden), vườn trúc (bamboo garden), các hồ cá koi (koi fish pond), Năm 1994 chỉ có 285.000 lượt du khách đến với Moji nhưng chỉ 1 năm sau đó, khi những khu vực được chỉnh trang nằm trong dự án “Nhìn lại Moji” hoàn tất và mở cửa thì lượng du khách đến với Moji tăng lên 1,07 triệu. Moji bắt đầu trở thành điểm không thể bỏ qua trong mọi lịch trình tham quan của du khách đến Kitakyushu. Để đảm bảo dù số lượng du khách đang tăng rất nhanh nhưng sẽ không ai trong số họ cảm thấy phiền lòng về chất lượng chuyến du lịch của mình ở Moji và nhất định sẽ trở lại, các cơ quan hữu quan nhanh chóng đầu tư nâng cấp, xây dựng thêm nhiều tiện ích và dịch vụ du lịch mới với mục tiêu là giữ chân khách ở lại Moji lâu hơn chứ không chỉ 1, 2 ngày. Để làm được điều này, chính quyền thành phố chọn giải pháp phát triển tổng thể toàn diện Moji, đặc biệt chú trọng đến khu vực cổ xưa nhất của vùng. Một “Hội đoàn phát triển Moji” được thành lập với sự tham gia của cả nhà nước và nhân dân. Tất cả những nỗ lực đóng góp từ phía người dân và chính quyền thành phố đã không làm họ thất vọng. Năm 2001, Moji thu hút đến 2 triệu lượt khách tham quan và năm tiếp theo con số này đã tăng lên 2,11 triệu. Không dừng lại ở đó, chính quyền thành phố tiếp tục nâng cấp và xây dựng những tiện ích mới cho du lịch để thu hút những du khách quen trở lại với Moji. Năm 2003, hai công trình du lịch mới rất ấn tượng được đưa vào sử dụng là Viện Bảo tàng Kaikyo Drama Ship hình con tàu cổ nằm gần một bến lên hàng trong cảng Moji giới thiệu lịch sử và văn hóa vùng và cái nữa là viện bảo tàng lịch sử ngành đường sắt Kyushu, giới thiệu giai đoạn hình thành trạm Kyushu, nhà ga xe lửa đầu tiên trên đảo. Trong thời gian tới, một số dự án khác như dự án xây dựng tuyến xe lửa đưa du khách ngoạn cảnh dọc theo tuyến cảng và tòa thị chính đa dụng sẽ được thực hiện. Dự án “Nhìn lại Moji” có thể nói là một thành công lớn của nhân dân và chính quyền thành phố Moji. Hiện nay nếu tính cả số du khách nước ngoài thì mỗi năm Moji đón tiếp không dưới 3 triệu lượt khách.Từ một thị trấn bị lãng quên trở thành một điểm du lịch phồn thị hấp dẫn nhờ biết khai thác di sản lịch sử văn hóa vốn có, Moji đã được tái sinh qua chiến lược phát triển du lịch lâu dài, đúng đắn, nghiêm túc của chính quyền thành phố Kitakyushu và đóng góp quan trọng của người dân - đây chính là mô hình mà Việt Nam cần học hỏi và bắt chước.
Kết luận:
Đến Nhật để thấy, để biết, để học hỏi rồi mới "ngộ" ra những cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu của người ta và nhận ra tại sao Nhật Bản có được những gì hôm nay và tại sao Việt Nam vẫn còn thua kém họ về nhiều mặt ? Ông bà mình đã dạy, "Đi một ngày đàng, học một sàng". Ngẫm nghĩ sao mà chí lý ! Du lịch cũng là để mở mang hiểu biết; nhất là đến Nhật rồi so sánh với các nước khác mới biết mình còn phải học nhiều, học nữa, học mãi và vẫn còn nhiều thứ phải học ! Sau khi đến Nhật, tôi học được ít nhất 5 điều chính sau đây:
- tinh thần kỷ luật (hơn cả người Đức !)
- tinh thần dân tộc và lòng trung thành với Nhật Hoàng
- tinh thần học hỏi, cầu tiến và canh tân
- kiến trúc, cảnh quan (landscape), văn hoá, giáo dục và kỹ nghệ (sản xuất xe hơi, điện tử, cơ khí, đồng hồ, tự động hoá, đồ dùng hàng ngày, tin học...) đều đáng học và khâm phục.
- kỹ nghệ du lịch, công tác bảo tồn thiên nhiên - văn hoá - ẩm thực và hệ thống giao thông cũng có vô số điều cần phải học.
Làm thế nào để trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu Á châu và TG chỉ 15 năm sau chiến tranh? Đó chính là bài học lớn nhất để người Việt như tôi phải suy nghĩ và tìm ra câu trả lời cho VN. Người Nhật thật sự hiểu biết cái gì cần phải giữ, cái gì cần phải bỏ đi, không lãng phí nhưng cũng chẳng chịu thua kém ai ! Đừng quên rằng không chỉ có người VN chiến thắng đoàn quân Mông Cổ mà chính người Nhật cũng làm được điều ấy.(9-2007).
No comments:
Post a Comment