Tuesday, August 25, 2009

Về quê (vài góp ý cho du lịch VN)

Về quê
I. Sáu năm về trước (1994), tôi đã viết nhiều bài góp ý về kiến trúc - quy hoạch - cảnh quan - xây dựng và môi sinh cùng với những vấn đề xã hội tại Saigon với tất cả thành tâm mong muốn Saigon của tôi sẽ ngày càng tốt đẹp hơn, sắp xếp một cách quy củ & hợp lý hơn để xứng đáng là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Từ đó đến nay, Saigon có khá nhiều thay đổi mới mẻ song vẫn có những cái cũ vẫn tồn tại như một “thực tế ...phũ phàng”(!), đồng thời nảy sinh nhiều “khối u ác tính” mới mà tôi nghĩ khó có thể chữa trị cho những con bệnh nan y này nếu chính quyền cố tình dung dưỡng, như nạn tham nhũng và các tệ đoan xã hội, nạn gia tăng dân số tự nhiên, sự di dân ồ ạt từ thôn quê ra thành thị, tình trạng làm ăn theo kiểu “chụp giựt” và việc kinh doanh độc quyền của Nhà Nước trong một số ngành, trong đó có vấn đề khai thác các di sản văn hóa - nghệ thuật dân tộc một cách “triệt để” qua du lịch để “đạt chỉ tiêu” về ngoại tệ mà thiếu sự bảo vệ đúng mức, do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan; trong đó phải kể tới nguyên nhân chính là giới chức hữu trách chỉ thấy cái lợi trước mắt mà bất kể hậu quả tai hại về sau, cũng như sự thiếu hiểu biết về chuyên môn lẫn trình độ quản lý. Hôm nay, tôi muốn góp ý với ngành du lịch và văn hóa - nghệ thuật (trong đó có kiến trúc) Việt Nam về vấn đề này.
II. Phi trường Tân Sơn Nhất và đón khách:
Tới phi trường Tân Sơn Nhất vào nửa khuya mà sân bay quốc tế này lại tiết kiệm điện quá mức nên đèn điện leo loét, bên trong nóng nực, ẩm thấp mà không có máy lạnh (?), nhân viên công an cửa khẩu vẫn duyệt xét visa từng hành khách một cách chậm rãi, mặt không chút thân thiện, không đếm xỉa gì đến sự khó chịu của du khách đang xếp hàng rồng rắn chờ anh ta ngó mắt đến. Tới baggage claim, bạn tôi lại thất lạc hành lý nên phải chờ giải quyết, trong khi các cô nhân viên đại diện hãng hàng không tiếp tục trò chuyện với nhau cho qua đêm, chẳng tích cực quan tâm gì đến yêu cầu của chúng tôi là được sớm ra khỏi nơi này để về nhà ngủ một giấc sau một chuyến bay dài! Với những điều nhỏ nhoi “tế nhị” như vậy cũng khiến chúng tôi hiểu ra lý do tại sao du lịch Việt Nam khó có thể cạnh tranh với các nước khác? Thẳng thắn mà nói là du lịch Việt Nam còn xem thường “khách hàng” của họ quá mức và thái độ quan liêu cùng tinh thần thiếu trách nhiệm của các cán bộ, nhân viên là nguyên nhân chính vì trải qua 10 năm tìm tòi, học hỏi mà bộ máy này vẫn luộm thuộm, bê bối, gây phiền hà và chậm trễ một cách vô lý không thể chấp nhận được, chưa kể thái độ hách dịch, quan liêu, bất lịch sự của các công an tại cửa khẩu quốc tế này. 10 năm qua, chính quyền Việt Nam có cải tiến khá nhiều (chẳng hạn, Hải Quan đã không còn đòi hối lộ trắng trợn như trước nữa, trừ phi hành khách “tự nguyện” đưa hối lộ) nhưng tại phi trường Tân Sơn Nhất vẫn tồn tại quá nhiều điều khó coi mà tôi đã nhiều lần góp ý từ năm 1994 đến nay: từ việc sắp xếp cho hành khách đi và đến vừa hợp lý và thoải mái hơn, đến một nơi lấy hành lý đàng hoàng hơn, hay một chổ cho thân nhân đón khách từ xa về thay vì tập trung đứng lố nhố chờ đợi trước cổng? Cửa hàng Duty Free ở TSN vừa bán quá đắt so với thị trường, vừa thiếu ân cần lịch sự với khách nên tôi lo sợ cho phi cảng TSN khó bề “tranh thủ” thu thêm “lợi nhuận” từ du khách nếu như không mạnh dạn cho phép tư thương mở thêm nhiều cửa hàng ngay tại đây với giá rẻ và cách phục vụ khá hơn; hoặc chính Duty Free Shops phải bán rẻ hơn so với bên ngoài như một cách giới thiệu đặc sản Việt Nam với ngoại quốc chứ không phải là một trạm “móc túi” du khách cuối cùng trước khi rời Việt Nam. Ngay bãi đậu xe, hoặc nơi tập trung xe taxi & bus cũng rất bừa bãi, dơ bẩn, vẫn chưa đủù nhà vệ sinh công cộng thật sự vệ sinh và lịch sự, chưa xứng đáng là cửa ngỏ quốc tế của một thành phố phát triển nhất nước, khó có thể so sánh với các phi trường ở Hongkong, Kuala-Lumpur, hay Singapore. Quan điểm kinh doanh của Việt Nam thể hiện rõ ràng qua cách đối xử với khách tại đây.
III. Cùng
là người Việt với nhau:
Về Việt Nam là chúng tôi muốn thăm lại người thân, bạn bè và “tham quan” những danh lam thắng cảnh quê nhà đồng thời thưởng thức đặc sản địa phương, nhất là mong ước được đối xử như là những người Việt Nam đi xa nay trở về nhà - hay ít ra cũng là người Việt với nhau chứ không phải là “người dưng, nước lã”. Vì vậy, tôi rất muốn dễ dãi cảm thông và bỏ qua cho những điều chưa tốt đẹp cho lắm ở những nơi công cộng, chẳng hạn như chưa vệ sinh lắm, giá cả và cách đối xử với chúng tôi chưa hợp lý lắm nhưng qua 6 năm rồi mà vẫn thấy ...y như cũ thì hơi buồn cho người Việt xa xứ chúng tôi và lo cho Saigon của tôi. Không biết các địa phương khác thì ... tệ thế nào?
Tồn tại lớn nhất là thái độ phân biệt đối xử giữa “Việt Kiều” và bà con bên nhà vẫn còn đó, đi đâu cũng bị coi là “Việt Kiều” thì cũng bị ... tính giá cao, hay bị “gây khó dễ”, bị công an địa phương “làm tiền” trắng trợn (y như bò sữa bị vắt, trong khi tôi không hề muốn bị gọi là “Việt Kiều” kia mà). Tôi không rõ các “Việt Kiều” khác đã làm gì “mất lòng” những nhân viên Nhà nước này trước đây hay không nhưng trên những đoạn đường mà tôi đi qua thì các viên chức địa phương có vẻ không mấy “thân thiện” với “Việt Kiều”, thậm chí tôi thấy sự xum xoe quá đáng của họ trước những cô cậu Tây ba-lô nhưng lại cáu kỉnh, khó chịu với những “Việt Kiều” hơi nghèo dollars như tụi tôi. Ngoại trừ những đoàn du lịch có hướng dẫn viên du lịch riêng rất am tường và lịch sự, cảm giác chung của chúng tôi là đa số cán bộ địa phương ï chỉ muốn tiền dollars chứ chẳng có “ý thức phục vụ” gì du khách cả, ngay những vấn đề thông thường nhất như bản đồ hướng dẫn đi lại trong các khu di tích và các khu “du lịch xanh” cũng không có, thông tin cũng không đảm bảo xác tín, thái độ của cán bộ quản lý các khu vực tham quan này cũng không được vui vẻ, thoải mái lắm. Giá như các địa phương cố gắng huấn luyện cán bộ có trình độ hiểu biết khá hơn, thân thiện và lịch sự hơn với du khách để mọi người từ phương xa có thể đến tham quan và vẫn lưu luyến để có thể trở lại nhiều lần nữa thì hay biết mấy cho chương trình “du lịch xanh” ở Việt Nam của chúng ta?
IV. Bảo vệ di
sản văn hóa dân tộc và kiến trúc cổ:
Từ Nam ra Huế, Việt Nam có đến hàng trăm di tích đáng được trùng tu, bảo tồn, nâng cấp nhưng hình như người ta chỉ biết lôi kéo du khách đến để moi tiền dollars bằng đủ mọi hình thức mà chẳng biết làm gì để duy trì và dùng phương pháp nào để bảo tồn(?). Người ta cứ đổ tội cho chiến tranh và những yếu tố khách quan mà chẳng hề thú nhận những lỗi lầm rất chủ quan. Không ai có thể phủ nhận rằng chiến tranh có thể tạo ra những tác phẩm văn hóa - nghệ thuật (văn, thơ, nhạc, họa, nhiếp ảnh,etc.) “để đời” cho dân tộc & nhân loại nhưng lại rất bất công với kiến trúc khi chiến tranh tàn phá và hủy hoại nhiều tác phẩm kiến trúc-một loại sản phẩm nghệ thuật phục vụ con người rõ ràng nhất. Chiến tranh đã hủy hoại quá nhiều di sản kiến trúc bằng bom đạn nhưng hôm nay, khi hòa bình đã hiện diện tại Việt Nam suốt 25 năm qua với 10 năm “đổi mới” thì người ta đã tận tình khai thác các di sản văn hóa- nghệ thuật, trong đó có các tác phẩm kiến trúc mà chẳng cần biết bảo vệ như thế nào là đúng để chúng còn có cơ may tồn tại với thời gian & con người? Tại Việt Nam, người ta chỉ muốn dùng những tác phẩm kiến trúc có tính chất di sản dân tộc như các lăng tẩm vua chúa, các biệt thự thời thuộc địa, các miếu tự cổ kính để phục vụ nhu cầu “kinh doanh du lịch,” không chút mảy may thương tiếc những tàn phá, hư hại từ con người, thời gian, khí hậu. Tuy Việt Nam không có những bức hoành tráng như Hoàng Cung của Trung Hoa hay Nhật nhưng kiến trúc Việt Nam được xây dựng phù hợp khí hậu - thổ nhưỡng - dân tộc tính, thể hiện một giai đoạn lịch sử phát triển & lịch sử văn minh Việt Nam và qua góc nhìn thẩm mỹ cũng khá độc đáo; vậy mà các Ban Quản Lý các công trình kiến trúc ở các địa phương hình như chỉ được lập ra nhằm mục đích độc quyền thu các khoản lệ phí, phục vụ nhu cầu thu gom ngân sách cho địa phương chứ họ chưa biết thế nào là làm tốtù nhiệm vụ bảo vệ, bảo tồn những vốn liếng quý báu này của dân tộc. Có thể họ cũng chưa hề được trang bị những hiểu biết căn bản về việc bảo vệ, bảo tồn, bảo tàng (từ lau chùi, gìn giữ và bảo trì các loại vật liệu kiến trúc khác nhau sao cho có thể tồn tại lâu dài trước sự tàn phá khắc nghiệt của thời gian, khí hậu và con người đến việc sử dụng các phương pháp/ phương tiện hiện đại hơn cho việc bảo quản di sản kiến trúc). Khi chúng tôi góp ý, họ có vẻ không mấy thiết tha đến những điều mà chúng tôi muốn chia sẻ về việc bảo tồn/ bảo tàng (preservation-restoration-rehabilitation-reconstruction- reuse), cảnh quan (landscaping), vệ sinh và môi sinh, nhất là “du lịch xanh” (ecotourism). Bảo tồn đâu chỉ là cạo hết rong rêu và cả những lớp sơn gốc nguyên thủy để tô lên một lớp sơn rẻ tiền khác một cách hào nhoáng “giả tạo” theo kiểu phim bộ Hongkong, Đài Loan với những chiếc cầu, bờ tường, lồng đèn, cột và hoa văn đặc sệt Trung Hoa vừa nhếch nhác, vừa tắc trách. Mỗi một viên ngói, cục gạch, hay dù là một lớp sơn, lớp vữa... của các đền đài, lăng tẩm, chùa, nhà thờ... đều cần phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi phục chế và cần hiểu rõ đó là một tác phẩm nghệ thuật do cha ông mình sáng tạo ra mà hôm nay vẫn còn tồn tại để thế hệ của mình còn may mắn thừa hưởng, chiêm ngưỡng và bảo vệ chứ đâu thể nào làm công việc bảo tồn theo kiểu “trả nợ quỷ thần” ! Ngay cả vệ sinh và cảnh quan (landscape) của khu vực chung quanh các di tích cũng đã là “chuyện dài” mà không biết bao giờ mới có thể có kết cuộc khá hơn một chút! Cũng không thấy nhà vệ sinh công cộng ở những khu “danh lam thắng cảnh” thì làm sao tránh khỏi nạn phóng uế bừa bãi, mất vệ sinh, gây ô nhiễm, phá hại cả một khu vực chứ không chỉ di tích mà thôi. Càng không thể tô sơn trét vữa cho các lăng tẩm nhưng lại để mặc cho rác rưởi ngập đầy các bờ tường với nhiều loại hàng quán bao quanh đó, cây cảnh trồng tạp nhạp không theo một conceptual design nào hay đang bị phá hại một cách vô ý thức, các sông hồ và cả khu vực môi sinh gần đó đều bị ô nhiễm trầm trọng mà địa phương vừa thiếu ngân sách, thiếu cán bộ hiểu biết chuyên môn, vừa thiếu cả tinh thần trách nhiệm và lắm khi thiếu ...lương thiện! Tôi có cảm tưởng người ta đang thi đua “chụp giựt” trên những “di sản” để rồi ...bỏ chạy, bất kể “di sản” kia ra sao cũng mặc kệ!?! Ngành văn hóa, bảo tồn/ bảo tàng, du lịch, từ trung ương đến địa phương sẽ nghĩ sao về những sự việc này? Hay là họ cứ thu tiền được đến lúc nào thì hay lúc đó, còn các công trình kiến trúc đó có sụp đổ, hư hại, mất mát thì ...tính sau? Lối làm ăn theo kiểu “kinh tế ...độc quyền” đến như vậy thì ...kinh thật! Tôi nêu vấn đề này hôm nay như là một báo động cho những ai đang quan tâm đến di sản văn hóa dân tộc (không chỉ là dân trong ngành kiến trúc hay văn hóa- nghệ thuật mà phải là ý thức của toàn dân và các cấp lãnh đạo cùng nhiều ngành liên quan như môi sinh, động & thực vật, khí tượng -thủy văn, etc...) và mong rằng những ai đang hưởng lợi trên các công trình kiến trúc cổ và các loại hình văn hóa- nghệ thuật khác của dân tộc sẽ biết trồng và chăm sóc cây thì mới mong được ăn ngon lâu dài hơn. Ngay như các khu phố cổ (Chợ Lớn, Hội An...) cũng không thể phó mặc cho dân chúng sửa chữa, trùng tu, khai thác “tự phát” và các địa phương cũng quy hoạch & thiết kế quá ...tùy tiện, đơn giản! Ngay sau khi trùng tu và sửa chữa, việc tu bổ, bảo trì cũng là một vấn đề quan trọng chứ không thể không áp dụng đúng theo những phương pháp mà quốc tế đã và đang áp dụng cho từng loại vật liệu trong từng điều kiện khí hậu, môi trường khác nhau. Người ta đang coi những khu di tích kiến trúc cổ xưa này như những khúc sườn nướng BBQ tẩm ít mật ngọt để thu lợi hơn là cần gìn giữ đúng mức vốn liếng quý báu cho con cháu về sau không những còn được biết về cội nguồn lịch sử - văn hóa - xã hội Việt Nam vào một giai đoạn nào đó, đồng thờiù còn phải biến quá khứ đó trở thành những mối liên hệ cụ thể đối với hiện tại và tương lai. Vì thế, tôi rất mong các địa phương sẽ đưa các di sản văn hóa - nghệ thuật dân tộc, trong đó có các di tích kiến trúc vào trong chương trình giáo dục phổ thông cơ sở để dạy cho học sinh bậc trung tiểu học hầu mai này thanh thiếu niên địa phương cũng am tường cặn kẻ về những gì họ đang có và thừa hưởng, đồng thời cũng biết quý yêu, trân trọng mà gìn giữ đàng hoàng hơn. Có như vậy, người dân địa phương - nhất là lớp trẻ - có thể giải thích với du khách với tất cả tự hào và lòng yêu quý, biết gắn bó hơn với nơi mà họ sinh ra và lớn lên. Làm như thế, công tác bảo tàng mới có giá trị tích cực thật sự.
V. Du lịch:

Bên cạnh đó, việc kinh doanh & khai thác du lịch cũng có nhiều vấn đề cần trao đổi:
- Cần đào tạo hướng dẫn viên không những lưu loát về ngoại ngữ mà còn có tác phong đạo đức & nghệ thuật ứng xử, am hiểu văn hóa - lịch sử. Không nên kéo dài tình trạng "tự phát" theo kiểu "trăm hoa đua nở" dẫn đến chuyện tour guide thiếu trình độ + trách nhiệm, không quan tâm đến nhu cầu và mong muốn của du khách; thậm chí bỏ mặc theo kiểu "đem con bỏ chợ"!
- Cần xây dựng, tu bổ và phát triển hệ thống giao thông(đường bộ, đường sắt, hàng không, đường thủy & hàng hải). Tránh tình trạng kẹt xe, đường xấu(ổ gà, ổ voi dằn xóc...) khiến du khách mất quá nhiều thời gian lãng phí hay trễ hẹn. Khách rất sợ trễ giờ vì kẹt xe, rất ngại ngủ gà ngủ gật trên những "con đường đau khổ" đầy ổ gà ổ voi, rất hãi hùng vì những quán cơm "bình dân" nhưng thích "chặt đẹp" dọc theo miền Trung, rất khổ sở vì những màn ăn xin, làm tiền hay chửi rủa ở phía Bắc. Xin các nhà thầu làm ơn phun nước cho bớt bụi khi làm đường, đừng mặc kệ thiên hạ chịu đựng những trò tra tấn của ngành cầu đường - xây dựng VN.
- Cần có nhà vệ sinh sạch đẹp vì đó là nhu cầu rất cần thiết, không thể xem thường vì dễ gây "ấn tượng" (xấu) khó quên. Rác cũng là vấn đề vì thiếu thúng rác, người dân chưa ý thức tác hại của việc xả rác - phóng uế và tiểu tiện bừa bãi. Rất nhiều du khách trong nước đã "tự nhiên" và "thoải mái" khi xả rác, khạc nhổ, phóng uế, tiểu tiện... ngay trước mắt du khách nước ngoài. Rất nhiều xe du lịch hay nhà hàng, tiệm, quán, nhà trọ, khách sạn rất "vô tư" để mặc cho rác và mùi khai/ hôi thối nồng nặc.
- Xin đừng nghĩ du khách là "bò sữa" tha hồ vắt kiệt hay "chặt đẹp". Không phải du khách nào cũng giàu có, hào phóng mà hãy nghĩ đến mục đích chính không chỉ là lợi nhuận mà còn tạo "ấn tượng" tốt đẹp để du khách sẽ còn trở lại hay giới thiệu cho người khác đến VN. Giá cả phải chăng theo đúng những gì khách thụ hưởng chính là sự công bằng, hợp lý, hợp tình cho khách lẫn chủ; không ai thiệt thòi. Du khách đi nhiều nên biết so sánh giữa VN và nơi khác. Trong tình trạng VN mới mở cửa, còn nhiều "hạn chế" thì làm sao thu hút du khách là chuyện VN cần quan tâm; nhất là khi cạnh tranh với Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia... thì VN phải hiểu thế mạnh vs yếu của mình chứ đừng vì lợi ích trước mắt mà "vắt" quá ...dã man, khách sợ sẽ chạy hết !
- Ăn uống ngon - rẻ - sạch, nhà nghĩ lịch sự, an toàn & vệ sinh là những điều mà du khách nào cũng mong đợi khi đi du lịch. Có như vậy người ta mới trở lại chứ đừng làm cho du khách nào cũng "một đi, không trở lại" !
- Du khách nước ngoài đến Việt Nam nhiều vì đất nước Việt Nam rất đẹp, dân chúng hiếu khách nhưng ý thức còn chưa cao, rất nhiều người bán hàng không trung thực với khách. Hàng rẻ nhưng lại dỏm, giả, nhái quá nhiều. Cảnh quan VN vẫn còn hoang sơ, chưa bị cải biến nhiều nhưng phong cách phục vụ sơ sài chưa nói còn có khi ...hung dữ chửi rủa như côn đồ, lừa gạt như rươi. Đất nước yên bình, không bạo lực, chiến tranh nhưng "Thạch sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều."

VI. Vài đề nghị với ngành Quy hoạch và Xây dựng:
Hầu hết các tỉnh miền Tây & Đông Nam Việt và Trung Việt cũng đều do các cán bộ Bộ Xây Dựng “độc quyền” quy hoạch & thiết kế theo quy định & hướng dẫn mà Bộ này soạn thảo nên quy trình thiết kế, thẩm định và xét duyệt của Bộ này cũng quá ...đơn giản, cứ như thế mà việc quy hoạch & thiết kế đô thị ở miền Nam Việt Nam dường như “đơn giản” hơn bất kỳ nơi nào khác mà tôi được biết đến. Có gì sai thì điều chỉnh lại sau và cứ thế mà “sửa sai” năm này qua tháng khác, mặc kệ hao hụt tài sản nhân dân, miễn cán bộ có công ăn việc làm là tốt! Gần đây, Bộ Xây Dựng tiến bộ hơn khi quyết định thả lỏng quy hoạch và nhân dân tha hồ thiết kế & xây dựng tràn lan theo kiểu “tự phát” nên việc quản lý đô thị lại được “ngầm” giao cho các nhà địa ốc mặc tình thao túng. Quy hoạch ở Việt Nam hôm nay được hiểu theo kiểu phân lô bán đất, bất kể đến những không gian mở, không gian công cộng, không gian giao tiếp, chẳng cần đến khoảng xanh cần thiết cho người già dạo mát và trẻ em vui chơi. Ngày xưa, quy hoạch đô thị còn gọi là “city planning” nhưng bao nhiêu năm qua thì người Mỹ chỉ gọi là “urban planning” để xác định hướng đô thị hóa dần các vùng ngoại thành nhưng vẫn phải phối hợp hài hòa giữa đô thị - con người - thiên nhiên, tuyệt đối không phá hoại sinh thái mà còn phải củng cố và bảo vệ môi trường sống và sự ổn định trong phát triển và cuộc sống thường ngày của người dân. Khi bắt tay thiết kế & quy hoạch một khu phố , ông thầy bắt chúng tôi ra đứng ở một góc phố để đếm xem bao nhiêu người (thuộc từng giới tính/ tuổi tác/ thành phần nghề nghiệp, v.v... khác nhau) qua lại góc phố này vào những thời điểm khác nhau trong ngày/ tuần để rút ra mật độ trung bình, xác định rõ nơi nào người ta thường dừng chân nghĩ lại, hay trò chuyện, nơi nào cần có bóng mát và băng ghế để ngồi nghĩ, xác định chổ nào vắng vẻ/ tấp nập, xác đnh cây nào cần phải giữ, chổ nào phải trồng loại cây gì vừa có bóng mát vừa không che bảng hiệu/ tủ kính của các cửa hàng/ hiệu ăn khu phố đó,v.v...trước khi tiến tới quy hoạch cho góc phố đó thành một khu thương mại , một khu hành chánh, hay một khu dân cư? Bước đầu đơn giản đó hình như là dư thừa ở Việt Nam nên cán bộ quy hoạch đã vẽ ngay quy hoạch tổng thể(Master Plan), sơ đồ định hướng phát triển không gian, v.v...mà không cần biết đến những thống kê hết sức quan trọng và cần thiết về dân cư, kinh tế, mạng lưới giao thông, lộ giới hay right-of-way, những tài liệu hoặc bản vẽ lưu trữ về hệ thống tiện ích công cộng và hạ tầng kỹ thuật (utility systems), ngầm (underground) và nổi, như điện - nước - điện thoại - nước thải,v.v... thì họ quả là tài giỏi hơn ai hết! Ngay như khu giao lộ bùng binh Hàng Xanh được giới thiệu như một công trình quy hoạch quan trọng nhưng khi tôi đến xem thì ....đơn giản quá, “chuyện không có gì ầm ĩ” như người ta thổi phồng! Bản đồ quy hoạch mà người ta cho tôi xem chỉ là một bản vẽ các trục giao thông mới, khoanh vùng các khu vực chức năng với màu sắc hấp dẫn một chút và vài mũi tên “định hướng phát triển”! Quy hoạch không thể là "chia lô, bán đất, chia nền" mà phải biết phân tích - so sánh - tổng hợp để từ đó phán đoán, sắp xếp và tổ chức sao cho hợp lý & khoa học hơn để định hướng phát triển cho tương lai. Tôi đã thấy tận mắt một ông chủ nhà giàu có “lên lớp” cho một anh kiến trúc sư trẻ về việc thiết kế ngôi nhà của ông khi mà ông tự hào là đã làm thợ mộc, thợ hồ mấy chục năm kinh nghiệm, từ khi anh KTS chưa chào đời và anh KTS chỉ biết răm rắp tuân theo bản vẽ (nhớp nhúa như trẻ con vẽ !) từ tay ông chủ nhà đó. Chưa hết, lối nhà hình ống của các khu phố, cư xá vẫn mọc tràn lan bên cạnh những khu thương xá, cơ quan, biệt thự thiết kế rập khuôn các mẫu nhà trong các tạp chí nước ngoài mà cứ tự hào là “hiện đại”, còn các ngôi chùa và nhà thờ được “biến tấu” với những mái nhà uốn cong lên ở các góc như các lưỡi đao theo “truyền thống dân tộc ” hết sức phổ biến và cứ cho đó là “đúng theo bản sắc dân tộc”! Hình như các cán bộ lãnh đạo ngành Quy Hoạch & Xây Dựng ở trung ương lẫn các địa phương đang coi việc quy hoạch và thiết kế dễ và đơn giản đến thế là cùng! Bởi vậy, ở Việt Nam, anh địa ốc cũng tự quy hoạch được thì chủ nhà nào cũng có thể thiết kế mẫu nhà mà họ cho là đẹp và lý tưởng theo ý của mình muốn, còn chuyên viên quy hoạch, kiến trúc sư thiết kế chỉ là người làm công lãnh tiền theo “đơn đặt hàng”, không còn dám “hướng dẫn” thân chủ về nhữngnguyên lý/ nguyên tắc căn bản trong thiết kế & quy hoạch mà chỉ ngoan ngoãn chạy theo đồng tiền! Quy hoạch như vậy mà các cơ quan quản lý đô thị vẫn không thấy loạn thì ...tài thiệt! Tôi luôn nghĩ rằng bên nhà vẫn có rất nhiều nhân tài thừa khả năng sáng tạo những công trình kiến trúc vừa hài hòa với cái đẹp của thiên nhiên, vừa thể hiện nét riêng của dân tộc mà vẫn thấy cái đẹp sáng tạo của văn minh hiện đại. Sáng tạo là ước mơ của mỗi kiến trúc sư và họ sẽ gánh lấy tất cả vinh - nhục từ tác phẩm của họ. Cho nên họ cần có đủ can đảm để “làm chủ” nét vẽ sáng tạo và cũng cần hướng dẫn quần chúng hiểu cho rõ và đúng về những nguyên tắc/ nguyên lý căn bản trong thiết kế - quy hoạch - xây dựng, không thể là nô lệ của đồng tiền mà phải biết vui - buồn khi có cơ hội nhìn ngắm lại “con đẻ” của chính mình. Thực tế cho thấy chính các KTS bên nhà có nhiều cơ hội để sáng tạo hơn là những người đang xa xứ lưu vong như chúng tôi; vậy tại sao quý vị không tận dụng để sáng tạo mà cứ phải cóp nhặt, bắt chước lai căng? Tôi cũng mong sao trong thiên niên kỷ mới, các đô thị Việt Nam sẽ sống và phát triển yên ổn mà không có xáo trộn lớn khi cứ phải điều chỉnh việc định hướng và quy hoạch đô thị hàng năm. Ai cũng biết kiến trúc & quy hoạch là công việc quan trọng, ảnh hưởng và chi phối đến đời sống thường ngày của người dân, trong đó có cả kinh tế, văn hóa, xã hội chứ không đơn giản là một bản vẽ 2D hay 3D! Việt Nam còn nghèo mà cứ phung phí trong công tác thiết kế & quy hoạch đô thị, coi nhẹ việc quản lý đô thị thì bao giờ dân mới đỡ khổ? Mong rằng các cán bộ ngành quy hoạch và quản lý đô thị hiểu và nhớ làm việc cẩn thận hơn, đàng hoàng hơn. Đừng đùa một cách vô trách nhiệm trên sự sống của hàng triệu con người vốn đã khổ nhiều rồi! “Sai một ly, đi một dặm” - đó là sự thật, ít ra là trong quy hoạch và quản lý đô thị. Bộ Xây Dựng hãy chấm dứt vai trò độc quyền từ việc soạn thảo quy định, thiết kế, lập bảng giá, thi công, xét duyệt, thẩm định, thanh tra, xây dựng và bảo trì (từ A đến Z!), hãy tạo cơ hội cho dân tham gia qua việc tổ chức các cuộc thi thiết kế khu phố mà họ đang sống, qua vai trò của các công ty tư vấn thiết kế & quy hoạch, các buổi đóng góp ý kiến của các giới, các ngành (public hearing) hơn là chủ quan tự mãn tiếp tục đóng kín cửa tự làm rồi tự “sửa sai” dài dài! Đó không phải là lối làm việc khoa học, dân chủ, tiến bộ mà người ta cứ tuyên truyền, hô hào nhưng chẳng hiểu biết thấu đáo gì cả! Tội nghiệp cho kiến trúc và văn hóa - nghệ thuật Việt Nam khi mà các nhà lãnh đạo lại “hồng” hơn là “chuyên” nên mới nảy sinh nhiều chuyện cười ra nước mắt như vậy đó. Ước mong sao lớp trẻ sẽ có cách nhìn, cách suy nghĩ, cách sống và cách làm việc khá hơn để xoay chuyển Việt Nam có thể tiến bộ, văn minh mà vẫn gìn giữ được di sản dân tộc đàng hoàng hơn.(14/ 8/ 2000)

No comments:

Post a Comment