Wednesday, August 5, 2009

Tre

Cố tổng thống Ngô Đình Diệm đã từng chọn Tre làm quốc huy của nền đệ I Cộng Hoà (VNCH). Tre là một loại cây rất đa dụng và gần gũi với các nước Đông Nam Á châu nói chung và người Việt nói riêng. Giống như cây dừa, toàn bộ cây tre, từ rễ cho đến ngọn đều được sử dụng trong đời sống. Từ xa xưa, cây tre cũng gắn bó với người nông dân VN. Hình ảnh làng quê VN từ xưa gắn liền với luỹ tre làng - những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược - nhân tai. Không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người nông dân VN: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường...), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ. Trên thế giới, Việt Nam không phải là một quốc gia duy nhất có tre. Trừ một số ít vùng châu Úc và châu Âu, tre gần như có mặt ở khắp nơi. Tre có rất nhiều ở nhiều nước Châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Philippines, Indonesia.... Tre có tên khoa học là Bambysaceae, lấy từ gốc Mã Lai là Bambu, xếp chung cho các loài tre - trúc. Ở Việt Nam, tre mọc rất nhiều và khắp nơi. Ngoài được trồng ở thôn xóm, làng xã, tre còn mọc tập trung thành rừng từ Bắc chí Nam.

Tre gồm hơn 40 loài và 15 giống khác nhau như: trúc, bương, lồ ồ, gai, vầu, mỡ, nứa, tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh, giang, le, trúc, là ngà, v.v... Ở Mỹ có nhiều khu Vườn Tre (Bamboo Garden) như khu Vườn Tre của trường Foothill College ở thành phố Los Altos, hay khu Vườn Tre Huntington Library ở San Marino, khu Vườn Tre trong khu business & industrial center ở Mira Mesa/ San Diego, tiểu bang California. Các khu vườn tre này có khoảng 70 loại tre trên thế giới, từ các loại tre ở miền nhiệt đới cho đến các loại tre miền ôn đới. Thông thường thì tre đươc trồng bằng gốc. Một gốc tre được ươm trồng thì hai năm đầu chỉ bén rễ, đến năm thứ ba thì mới có măng (tre non).
Tre là một nhóm thực vật thường xanh đa niên thân gỗ, thuộc Bộ Hòa thảo, Phân họ Tre, Tông Tre (Bambuseae), một số loài của nhóm này rất lớn, và được coi là lớn nhất trong Bộ Hòa thảo. Tre có nhiều loại:

a. Tre khổng lồ (Giant Timber Bamboo-Phyllostachys), cao từ 30 -70 feet: Phyllostachys atrovaginata
Phyllostachys bambusoides ('Albovariegata’,'Allgold', 'Castillon', 'Castillon Inversa', 'Kawadana', 'Marliac', etc.
Phyllostachys decora
Phyllostachys dulcis
Phyllostachys edulis ‘Moso’
Phyllostachys glauca 'Yunzhu'
Phyllostachys iridescens
Phyllostachys nigra (‘Black Bamboo’, ‘Hale’, ‘Bory’, ‘Henon’, ‘Megurochiku’, etc..)
Phyllostachys nuda
Phyllostachys viridis (‘Robert Young’)
Phyllostachys vivax (‘Aureocaulis’, ‘Huangwenzhu’, ‘Huangwenzhu Inversa’ ‘Kimmei Vivax’…)
b.Tre trung bình (Mid size Bamboo), cao từ 15 - 30 feet:
Phyllostachys angusta
Phyllostachys aurea (‘Dr. Don’, 'Flavescens Inversa', 'Holochrysa', 'Koi', ….)Phyllostachys aureosulcata ('Harbin’, 'Harbin Inversa', 'Spectabilis',…)Phyllostachys bambusoides ('Kawadana', 'Marliac', 'Richard Haubrich',etc.)Phyllostachys bissetii
Phyllostachys decora
Phyllostachys flexuosa 'Spring Beauty'
Phyllostachys heteroclada
Phyllostachys meyeri
Phyllostachys nidularia
Phyllostachys nigra (‘Black Bamboo’, ‘Hale’, etc...)
Phyllostachys nuda
Phyllostachys platyglossa
Phyllostachys praecox 'Viridisulcata'
Phyllostachys stimulosa
Phyllostachys violascens
c. Tre lùn: Sasa kurilensis, Sasa kurilensis 'Shimofuri', Sasa oshidensis, Sasa palmate, Sasa palmate, Sasa veitchii, Sasaella masamuneana 'Albostriata', Sasaella ramose, Sasamorpha borealis...
Shibataea chinensis, Shibataea kumasaca...
Pseudosasa owatarii
Chimonobambusa marmorea 'Variegata'
Indocalamus hamadae Indocalamus latifolius, Indocalamus tessellates
Pleioblastus akebono, Pleioblastus distichus, Pleioblastus fortunei,Pleioblastus kongosanensis 'Aureostriatus', Pleioblastus pygmaeus, Pleioblastus shibuyanus 'Tsuboi', Pleioblastus viridistriatus, Pleioblastus viridistriatus 'Chrysophyllus'...

Còn có rất nhiu loại tre khác nhau na.
Tre được sử dụng làm nhà (cột, kèo), làm đũa, làm máng nước, làm rổ rá, vật dụng nông nghiệp (gầu, cán cuốc, cán xẻng). Trúc làm sáo, cần câu cá, trang trí nội thất và nhiều đồ thủ công mỹ nghệ. Tre non làm thức ăn (măng). Tre khô kể cả rễ làm củi đun. Tre trồng dày đặc làm rào tự nhiên cho các làng ở đồng bằng miền Bắc. Trong chiến tranh, tre được sử dụng làm vũ khí rất lợi hại (chông tre, gậy, cung tên). Ngay từ thời dựng nước, cây tre đầu làng vốn gần gũi, thân quen, thoáng chốc trở thành vũ khí lợi hại có đủ tính cương nhu, giúp cậu bé làng Gióng đánh tan giặc Ân, sau khi chém gãy cả thanh gươm sắt. Dân tộc ta đã biết sử dụng tre làm công cụ giữ nước, với các vũ khí lợi hại như cung, nỏ, bàn chông, tầm vông vạt nhọn... Và những tiếng nổ kinh hồn của hàng loạt pháo tre đã làm quân thù bạt vía trên chiến trường, hay góp vui trong ngày hội liên hoan thắng trận. Lịch sử có kể về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuật - người đã dựa vào hàng rào cây tre dày đặc mà đạn của Pháp không bắn xuyên qua được. Nhiều đồ thủ công mỹ nghệ sản xuất từ mây, tre, trúc, nứa, luồng và các sản phẩm trang trí nội thất gia đình theo kiểu truyền thống hay cách tân. Tre - loài cây có mặt khắp nơi trên thế giới (trừ châu Âu và Bắc cực) sẽ trở thành vật liệu xây dựng lý tưởng của thế kỷ 21.

Cây tre đã đi vào văn hoá – nghệ thuật VN như một hình ảnh truyền thống bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm.

Trong văn chương bình dân, cây tre là hình ảnh thân thương bất khả phân ly, gợi lên bổn phận và trách nhiệm gánh vác gia đình, non nước của người làm trai:

Ba đời bảy họ nhà tre
Hễ cất lấy gánh, nó đè lên vai
Hoặc để nói lên lòng thương con vô bờ bến của tình mẫu tử thiêng liêng:
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời
...
Theo quan niệm của người phương Đông, tre - trúc tượng trưng cho mẫu người quân tử. Cứng mà mềm mại, đổ mà không gãy, lòng rỗng không, biểu trưng cho tinh thần và khí độ an nhiên tự tại, không mê đắm quyền lợi, vật chất. Tre, trúc biểu lộ tính cách của dân tộc Việt, một dân tộc có tiết tháo, phẩm hạnh và kiêu hùng, ngoan cường nhưng hiếu hòa, độ lượng.
Không như hầu hết các loại cây chỉ đứng riêng lẻ một mình, tre luôn mọc thành bụi, có gốc liền gốc, rễ đan rễ, thể hiện tính quần tụ, kết đoàn, tạo thành sức mạnh khó lay chuyển. Câu chuyện một người bẻ dễ dàng từng chiếc đũa tre, song không thể bẻ gãy cả bó được minh chứng. Thân tre thẳng và cao mà không bị đổ là do thớ tre dẻo và thân tre mềm dễ lượn theo chiều gió. Với đặc tính phối hợp cương nhu để đón gió, thuận theo gió vừa đủ rồi ngạo nghễ vươn lên trở lại hình dáng cũ - một đặc tính độc đáo chỉ có ở cây tre. Dưới những trận cuồng phong, tre chỉ chịu tróc gốc cả bụi chứ không bao giờ chịu gãy ngang thân... Tính chất nổi bật nhất trong cây tre tương ứng với kỹ thuật võ học là càng bị uốn cong và kéo sát bao nhiêu thì sức bật lại càng mãnh liệt, dữ dội bấy nhiêu. Điều này càng thể hiện rõ tinh thần cương nhu phối triển trong nghệ thuật giữ nước của dân tộc Việt. Gặp đối thủ cường bạo, hung hiểm, tạm thời ông cha ta thường lánh đi (nhu) để tránh nhuệ khí ban đầu. Sau đó chờ cho địch lơi lỏng, chểnh mảng việc quân cơ, ta mới tập trung đánh những trận quyết định (cương) hầu giành thắng lợi sau cùng.

Trước những trận đánh quyết định để đảm bảo thắng lợi, chúng ta cần lùi lại để tạo đà thật vững chắc. Lịch sử giữ nước của bao nhiêu triều đại VN đã chứng minh cụ thể điều đó. Với biểu tượng cây tre, dân tộc ta đã nâng việc giữ gìn và bảo vệ đất nước lên hàng nghệ thuật với biết bao kinh nghiệm vô cùng sống động và phong phú.

Tre biểu tượng cho một nhân cách, một hoài bão cao thượng. Quần thể tre cho thấy một xã hội thuận hòa kỷ cương “tre già măng mọc”, chứ không phải tranh sống theo kiểu “cây lớn đè cây nhỏ” giành lấy ánh sáng mặt trời. Bắt nguồn từ các quan điểm trên, các bậc thầy Vovinam Việt Võ Đạo quan sát cây tre ở nhiều góc độ, tư duy về lẽ sinh tồn, thành bại để đúc kết xây dựng một lý luận về vận động võ học, một quan niệm nhân sinh. Từ đó xây dựng một con người võ đạo biết sống yêu thương gần gũi, hòa nhập với cộng đồng để mưu cầu hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Cho dù gặp sự ngang trái, mâu thuẫn, hoặc lâm vào cảnh bế tắc, con người võ đạo vẫn biết “vật cùng tắc biến”, hóa giải các mâu thuẫn bằng nguyên lý cương nhu phối triển. Cho nên có thể nói cây tre là bài học đầu tiên để nắm các yếu lý của võ thuật.
Với các phẩm tính có một không hai, cây tre chứa đựng những hình ảnh sinh động bao gồm đầy đủ tính âm dương, cương nhu và luôn hữu dụng cho con người. Hào hùng, khoáng đạt song cũng hết sức khiêm cung, bình dị và đầy lòng yêu thương... cũng là nét văn hóa đậm tính cách dân tộc mà cây tre là một biểu tượng điển hình của tinh thần nhân hòa và nguyên lý cương nhu phối triển. Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm... nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay. Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi... tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.
Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa
. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở. Nhưng xem ra chỉ có ở VN là cây tre và các loại tre vẫn bị bỏ quên. Hiện nay, khoảng hơn 1.000 loài thuộc họ tre đã được trồng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các nơi có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Các
nước phát triển ngày càng coi trọng cây tre và ưa thích các loại sản phẩm chế biến từ tre. ở các nước Đông á, nơi được coi là quê hương của cây tre, đang có xu hướng quay trở lại sử dụng loại vật liệu có nhiều đặc tính quý báu này trong mọi mặt của đời sống. Một ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ tre đã ra đời và đang phát triển mạnh ở một số nước châu Á.
Đi đầu trong những nước này là Trung Quốc(*). Tre và các loại cây thuộc họ tre phát triển chủ yếu ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc, những năm gần đây xuất khẩu hơn nửa triệu mét vuông mỗi năm. VN, đất nước mà cây tre, cây trúc mọc từ ngàn đời, những năm gần đây cũng tiêu thụ không ít chiếu trúc, chiếu tre nhập từ Trung Quốc, và xu hướng này vẫn đang tiếp diễn!!! Mỗi hécta trồng tre chất lượng cao đem lại thu nhập 15.000 USD mỗi năm cho người nông dân Trung Quốc. Các tác phẩm mỹ thuật tinh xảo được dệt thủ công từ sợi tre (được chẻ nhỏ và chế biến bằng công nghệ hiện đại) xuất sang thị trường Singapore gần đây thật đáng chú ý. Trái với quan niệm trước đây là cây tre làm đất bạc màu, kết quả nghiên cứu do Viện Nghiên cứu và phát triển sinh thái (trụ sở ở Lugana, Philippines) cho thấy cây tre đã cải tạo thành công ở những vùng đất bị tro núi lửa Pinatubô huỷ hoại. Cây tre có sức sống tuyệt vời ở cả những vùng đất bạc màu, cằn cỗi hay đất bị ô nhiễm. Viên nghiên cứu này cũng khẳng định bộ rễ của cây tre có tác dụng ổn định nhất, chống xói mòn đất, chống xói lở bờ sông, tre mọc ken dày có thể làm giảm cường độ của gió, giảm sự tàn phá của những cơn bão và gió lốc. Người Nhật đã từng trồng thí nghiệm tre trên một vùng đất ở gần Hiroshima -thành phố bị tàn phá bởi bom nguyên tử năm 1945. Cây tre đã đâm chồi trên đất nhiễm phóng xạ ở đây sau khi được trồng vài tháng!
Một phương pháp sử dụng chất bảo quản có nguồn gốc thiên nhiên mới cũng được các nhà khoa học Nhật phát minh gần đây, khi mà trong quá trình nghiên cứu xử lý tre dùng làm đồ nội thất và làm thùng chứa, họ vô tình phát hiện một chất có khả năng chống ôxy hoá mạnh có trong vỏ cây tre. Nếu như cây cà kheo bằng tre được người dân miền biển VN sử dụng từ xa xưa để đánh bắt một số loại hải sản, thì ở Australia hiện nay, môn thể thao khá phổ biến là lướt sóng biển bằng ván gần đây có nét mới: loại ván trượt được ưa chuộng được làm bằng tre phủ một lớp nhựa epoxy bằng công nghệ cao.
Đất nước Triều Tiên từ xa xưa cũng đã sử dụng tre, nứa trong đời sống. Loại muối tre có tên là Chukyom được dùng ở nước này từ khoảng 1.000 năm, loại muối này còn được hoà tan vào nước dùng như một thứ thuốc chữa bệnh đau dạ dày. Người ta cho muối vào ống tre, dùng một loại đất sét đặc biệt bịt kín lại rồi nung trong nồi đất kín trong một khoảng thời gian xác định thu được một hỗn hợp. Hỗn hợp này hiện còn được chế biến, đưa cả vào kem đánh răng (hiện đang bán phổ biến trên thị trường VN với tên thương mại là Bamboo Salt).
Gần VN hơn là Indonesia, đất nước có nhiều tương đồng với VN về văn hoá. Một số nơi ở nước này, như ở đảo Bali đang phát triển trồng và chế biến tre. Tre đã được sử dụng để làm những căn nhà cao tới 8 m (dùng kèm với các loại vật liệu nhẹ khác) - một dạng nhà kính khung tre, và một số đồ nội thất khác như bàn máy tính bằng tre. Một tổ chức có tên là Tre bảo vệ môi trường đã ra đời ở đảo Bali nhằm cổ vũ cho việc trồng tre và sử dụng sản phẩm từ tre trong đời sống. Tổ chức này hiện có hơn 80 giống tre đã và đang cung cấp rất nhiều cây giống tới nhiều vùng ở Indonesia, cùng với phương pháp chăm sóc tre với những ưu điểm là giá thành thấp, có khả năng chống côn trùng, nấm mốc cho tre. Tổ chức này tin rằng mình đang đi đúng hướng, khi mà hiện nay nhu cầu tiêu thụ gỗ toàn thế giới đang lớn hơn mức cung, và cứ mỗi ngày lại có thêm nhiều cánh rừng biến mất. Cũng dùng tre để làm nhà, nhưng ở Hồng Kông còn có những ngôi nhà cao tới 40 tầng đã được dựng với vật liệu chủ yếu là tre. Trong tương lai gần ở Hồng Kông sẽ mọc lên nhiều ngôi nhà có khung bằng tre đã qua xử lý đặc biệt.
Thái Lan có nhiều nhà máy chế biến sản phẩm tre. Sản phẩm phụ của một số nhà máy
như thế lại trở thành nguyên liệu cho dân trong vùng nơi có nhà máy chế tạo đồ thủ công mỹ nghệ và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày. Tre cũng được trồng từ lâu ở Nepan, ấn Độ, và ngày càng được coi trọng vì độ bền và tính hiệu dụng trong cuộc sống người dân ở đây. Nước ta cũng như một số nước quanh vùng đang sử dụng các cây thuộc họ tre làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp giấy. Đã có một thời, tre và một số cây thuộc họ tre đã được chúng ta phát triển để chế biến xuất khu. Khi thị trường truyền thống với hàng mây tre VN là Liên Xô và các nước Đông Âu không còn, ngành thủ công mỹ nghệ mây tre lạc hậu và công nghệ của ta đã suy sụp. Sau một số năm, khi mà các rặng tre làng đã trở nên “hiếm” thì tre nứa chỉ còn được dùng chủ yếu làm nguyên liệu giấy và sử dụng với nhu cầu nhỏ ở thôn quê, chỉ một số loại tre trúc được trồng làm cây cảnh được coi là “có giá trị kinh tế”. Gần đây cây tre đã được quan tâm trở lại. Có một dạo, loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá... bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế nhưng trong những năm gần đây,cây tre đã được quan tâm trở lại. Việc nghiên cứu cải tạo giống tre trúc không biết bao giờ mới được tiến hành. Phong trào trồng cây luồng ở một số địa phương, xuất khu sản phẩm trang trí nội thất và nhiu đồ thủ công mỹ nghệ bng mây tre trúc gần đây là một tín hiệu đáng mừng. Cây tre, loại cây có thời gần gũi với người VN cũng như cây lúa, cây dừa, hy vọng tre sẽ tìm lại được vị thế xứng đáng của nó.

Từ Hawai (Mỹ) tới Việt Nam, cây tre hiện diện không còn chỉ ở những túp lều rẻ tiền đơn sơ nữa mà đã có mặt trong các tòa nhà sang trọng lẫn các khu nghỉ dưỡng xa xỉ, trở thành vật liệu xây dựng từ nhà thờ cho tới các cây cầu lớn. Dưới cái nhìn của giới kiến trúc, tre là "thép thực vật" nhưng tính năng của nó còn ưu việt hơn cả thép. Tre nhẹ hơn thép nhưng có sức bền cao gấp 5 lần bê tông. Không như các cây lấy gỗ vốn cho thời gian khai thác chậm, tre sinh trưởng rất nhanh và có khả năng hấp thụ khí CO2 - thủ phạm làm môi trường trái đất ấm lên - gấp 4 lần so với cây lấy gỗ. Kiến trúc sư người Colombia Simon Velez vừa hoàn tất một công trình kiến trúc từ tre lớn nhất từ trước đến nay, cho rằng mối tương quan giữa trọng lượng với sức bền của tre ở mức hoàn hảo nhất so với bất kỳ vật liệu xây dựng thông thường nào. Công trình mà ông vừa hoàn thành có diện tích tới 5.128 mét vuông, mang tên "Bảo tàng Du mục" ở thủ đô Mexico City của Mexico, được làm chủ yếu bằng tre. Kiến trúc sư Darrel DeBoer sống ở San Francisco (Mỹ), người chuyên nghiên cứu các vật liệu có sức bền cao cho rằng các kết cấu khung tre phù hợp với nhiều loại hình khí hậu. Từ năm 2000 đến nay, tre VN cũng đã xuất hiện nhiều hơn ở nước ngoài qua các sản phẩm trang trí nội thất và các nhà hàng VN cho dù từ xa xưa tre-trúc đã đóng góp không ít vào ngành kiến trúc - xây dựng - trang trí - thủ công mỹ nghệ VN. Bên cạnh những "hiện tượng tiêu cực" và tham nhũng trong ngành xây dựng ở VN, câu chuyện "bê-tông cốt tre" được sử dụng thay cho bê-tông cốt sắt/ thép cũng gây xôn xao dư luận một dạo. Thực ra tre đã được sử dụng rộng rãi trong ngành xây dựng cầu (bridge), nhà ở, thuyền (sail boat spars), trang trí, v.v... không chỉ ở VN, TQ, Ấn Độ... mà còn thấy ở nhiều nước khác(**).

Vì nhu cầu kỹ nghệ, con người đã nghĩ cách trồng tre bằng hạt nhưng chu kỳ ra hoa, kết quả của tre thường lâu: từ 5 đến 60 năm/ lần ra hoa và sau khi ra hoa tre thường chết hàng loạt. Tre một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời. Tre và hoa tre chết đứng chứ không rủ xuống như bao loài hoa khác, tre và hoa như đang thi gan cùng tuế nguyệt . Một hình ảnh hiên ngang và bất khuất giữa trời đất mênh mông, giữa muôn ngàn giống loài của thảo mộc. Thản nhiên trong cõi đi về tựa như một triết nhân đã ngộ được chân lý về sự sống chết của cuộc đời. Gần đây, các nhà khoa học Ấn Độ đã nghiên cứu kỹ thuật kích thích tre nở hoa trong phòng thí nghiệm bằng dung dịch gồm có nước dừa, muối khoáng, đường, vitamin. Kết quả sau 15 - 20 ngày, tre đã nở hoa. Tre tàn, măng mọc - nói lên sự tiếp nối từ thế hệ trẻ khi thế hệ già hơn về hưu.

Là người Việt Nam thì ai cũng biết cây tre nhưng rất nhiều người không có dịp để thấy được "tre nở hoa". Hoa tre bung nở từng chùm hoa vàng nhạt như màu đất, xen giữa màu xanh của lá tre. Không bao lâu sau, những chùm hoa tre khô cong đong đưa trong gió như những bàn tay đang vẫy chào tiễn biệt. Những cây tre nở hoa từ màu xanh chuyển dần sang màu ngà rồi thân tre khô lại và chết đi. Hình ảnh của quê nhà và bụi tre nở hoa như vẫn còn khắc đậm trong tâm trí người Việt Nam xa xứ, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, nơi quây quần chia xẻ buồn vui của cuộc sống của những cộng đồng người Việt từ hàng bao thế hệ. Hai chữ lũy tre thường gợi cho người nghe hình ảnh tươi mát thân yêu của một làng quê bên nội hay bên ngoại nào đó. Và không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống người Việt như một thành tố không thể thiếu được./. (2-2008)
special thanks to:
http://www.caytreviet.com
http://www.bamboogarden.com/

No comments:

Post a Comment